Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tạng Luật (Vinayapiṭaka)
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
MỤC LỤC
Tiểu Phẩm (Cullavagga)
Tập 1
01. Chương Hành Sự (Kammakkhandhakaṃ)
7. Hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
(Pāpikāya diṭṭhiyā appaṭinissagge ukkhepanīyakammaṃ)
[276] Câu chuyện về tỳ khưu Ariṭṭha
[277] Giảng về sự tai hại của dục tình
[278] Thực thi hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến
ác
[279] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác
không đúng Pháp, không đúng Luật
[291] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác đúng
Pháp, đúng Luật
[303] Thực thi hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến
ác nếu muốn
[309] Mười tám phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo
trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác
[312] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác
không nên thu hồi
[315] Hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác nên
được thu hồi
[318] Thu hồi hành sự án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến
ác
[319] Bài kệ tóm lược
[276] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana,
tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã
sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn
thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả
năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.”
Nhiều vị tỳ khưu đã nghe rằng:
- Nghe nói tỳ khưu tên Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã
sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn
thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả
năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng,
sau khi đến đã nói với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng điều
này:
- Này đại đức Ariṭṭha, nghe nói đại đức đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: “Theo như
ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được
đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực
hành,” có đúng không vậy?
- Này các đại đức, đúng như vậy. Theo như tôi hiểu về Pháp đã được
đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập
không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này đại đức Ariṭṭha, chớ có nói như thế. Chớ có vu khống đức Thế Tôn bởi vì việc
vu khống đức Thế Tôn là không tốt. Bởi vì đức Thế Tôn không có nói như thế. Này
đại đức Ariṭṭha, đức
Thế Tôn đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng các pháp chướng ngại có khả
năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành. Đức Thế Tôn đã giảng giải rằng
dục tình chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất
lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là bộ xương, nhiều
khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được đức
Thế Tôn giảng giải như là miếng thịt ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế
Tôn giảng giải như là cây đuốc cỏ ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn
giảng giải như là hố than cháy rực ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế
Tôn giảng giải như là giấc mơ ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng
giải như là vật vay mượn ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải
như là trái trên cây ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải
như là lò sát sanh ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như
là mũi lao nhọn ...(như trên)... Dục tình đã được đức Thế Tôn giảng giải như là
đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn.
Khi được các vị tỳ khưu ấy nói như thế, tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng do
có sự ngoan cố, chấp giữ, và bảo thủ tà kiến ác ấy nên vẫn phát biểu giống như
thế:
- Này các đại đức, theo như tôi hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn
thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả
năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.
Bởi vì các vị tỳ khưu ấy không thể giúp cho tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng
thoát khỏi tà kiến ác ấy, sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến gặp đức Thế Tôn,
sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[277] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng rằng:
- Này Ariṭṭha, nghe nói tà kiến ác đã sanh khởi ở ngươi như vầy: “Theo như
ta hiểu về Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được
đức Thế Tôn đề cập không có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực
hành,” có đúng không vậy?
- Bạch ngài, đúng như vậy. Theo như con hiểu về Pháp đã được đức
Thế Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không
có khả năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.
- Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hiểu Pháp được ta thuyết giảng
là như thế? Này kẻ rồ dại, không phải ta đã giảng giải bằng nhiều phương thức rằng
các pháp chướng ngại có khả năng đem đến sự chướng ngại cho người thực hành hay
sao? Dục tình đã được ta giảng giải là chỉ có chút ít khoái lạc, nhiều khổ đau,
nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Dục tình đã được ta giảng giải
như là bộ xương, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở đó điều bất lợi còn nhiều
hơn. Dục tình đã được ta giảng giải như là miếng thịt ...(như trên)... Dục tình
đã được ta giảng giải như là cây đuốc cỏ ...(như trên)... Dục tình đã được ta
giảng giải như là hố than cháy rực ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng
giải như là giấc mơ ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là vật
vay mượn ...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là trái trên cây
...(như trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là lò sát sanh ...(như
trên)... Dục tình đã được ta giảng giải như là mũi lao nhọn ...(như trên)... Dục
tình đã được ta giảng giải như là đầu rắn độc, nhiều khổ đau, nhiều ưu phiền, ở
đó điều bất lợi còn nhiều hơn. Này kẻ rồ dại, hơn nữa ngươi không những vu khống
ta do sự hiểu biết sai lạc của bản thân mà ngươi còn làm tổn hại chính bản thân
và tích lũy vô số điều bất thiện nữa. Này kẻ rồ dại, chính điều ấy sẽ đem lại
cho ngươi sự thất bại và khổ đau lâu dài. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem
lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những
người đã có đức tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ...(như trên)... ngài đã thuyết Pháp thoại rồi
bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thực thi hành sự án
treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha (tức là) việc không cùng thọ hưởng với hội
chúng.
[278] Và này các tỳ khưu, nên thực thi như vầy: Trước hết, tỳ
khưu Ariṭṭha cần được quở trách; sau khi quở trách cần
được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở cần xác định tội; sau khi xác định tội, hội
chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Ariṭṭha này, trước đây là người huấn luyện chim
ưng, đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế
Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả
năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến
ác ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức
là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Ariṭṭha này, trước đây là người huấn luyện chim
ưng, đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế
Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả
năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến
ác ấy. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối
với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không
cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo
trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức
là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có
thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu Ariṭṭha này trước đây là người huấn luyện chim
ưng đã sanh khởi tà kiến ác như vầy: ‘Theo như ta hiểu về Pháp đã được đức Thế
Tôn thuyết giảng thì những pháp chướng ngại được đức Thế Tôn đề cập không có khả
năng đem lại sự chướng ngại cho người thực hành.’ Vị ấy không chịu từ bỏ tà kiến
ác ấy. Hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối
với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức là) việc không
cùng thọ hưởng với hội chúng. Đại đức nào đồng ý việc thực thi hành sự án treo
trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức
là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng xin im lặng; vị nào không đồng ý có
thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu
Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức
là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng đã được hội chúng thực thi. Sự việc
được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Và này các tỳ khưu, hãy thông báo cho tất cả các trú xứ rằng:
“Tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng đã được hội chúng thực
thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác (tức là) việc không cùng
thọ hưởng với hội chúng.”
[279] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất
khi hội đủ ba điều kiện: Được thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi thiếu
sự tra hỏi, được thực thi với sự không thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều
kiện này hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự không
đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật, khó được hoàn tất.
[280] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với tội không vi phạm, được thực thi với tội vi phạm đưa đến việc
không sám hối được, được thực thi với tội đã được sám hối. ...(như trên)...
[281] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi khi chưa quở trách, được thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi khi
chưa xác định tội. ...(như trên)...
[282] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi thiếu sự hiện diện, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi
phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[283] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi thiếu sự tra hỏi, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi phe
nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[284] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với sự không thừa nhận, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi
phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[285] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với tội không vi phạm, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi
phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[286] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với tội vi phạm đưa đến việc không sám hối được, được thực thi không
theo Pháp, được thực thi bởi phe nhóm. ...(như trên)...
[287] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với tội đã được sám hối, được thực thi không theo Pháp, được thực thi
bởi phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[288] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi khi chưa quở trách, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi
phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[289] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi khi chưa nhắc nhở, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi
phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[290] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi khi chưa xác định tội, được thực thi không theo Pháp, được thực thi bởi
phe nhóm. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác là hành sự không đúng Pháp, là hành sự không đúng Luật,
khó được hoàn tất.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự
không đúng Pháp thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
[291] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội
đủ ba điều kiện: Được thực thi với sự hiện diện, được thực thi từ sự tra hỏi,
được thực thi do sự thừa nhận. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng
Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
[292] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội
đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi với tội vi phạm, được thực thi với tội
vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi với tội chưa được sám hối.
...(như trên)...
[293] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi
sau khi đã xác định tội. ...(như trên)...
[294] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với sự hiện diện, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp
nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[295] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi từ sự tra hỏi, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp
nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[296] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi do sự thừa nhận, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp
nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[297] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với tội vi phạm, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp
nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[298] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với tội vi phạm đưa đến việc sám hối được, được thực thi đúng theo
Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. ...(như trên)...
[299] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi với tội chưa được sám hối, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi
với sự hợp nhất. ...(như trên)...
[300] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi sau khi đã quở trách, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với
sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[301] Này các tỳ khưu, ...(như trên)... ba điều kiện khác nữa: Được
thực thi sau khi đã nhắc nhở, được thực thi đúng theo Pháp, được thực thi với sự
hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều kiện này ...(như trên)...
[302] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác là hành sự đúng Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp khi hội
đủ ba điều kiện khác nữa: Được thực thi sau khi đã xác định tội, được thực thi
đúng theo Pháp, được thực thi với sự hợp nhất. Này các tỳ khưu, hội đủ ba điều
kiện này hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác là hành sự đúng
Pháp, là hành sự đúng Luật, được hoàn tất tốt đẹp.
Dứt mười hai trường hợp về hành sự
đúng Pháp thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
[303] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc
tính: Vị thường gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự
tranh luận, thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng
trong hội chúng; vị ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm
cho thoát (tội); vị năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn
cùng người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính
này.
[304] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính
khác nữa: Vị bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, vị bị hư hỏng về hạnh
kiểm thuộc tăng thượng hạnh, vị bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy.
Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[305] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính
khác nữa: Vị chê bai đức Phật, vị chê bai đức Pháp, vị chê bai đức Tăng. Này
các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu hội đủ ba đặc tính này.
[306] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu: Hạng thường
gây nên sự xung đột, thường gây nên sự cãi cọ, thường gây nên sự tranh luận,
thường gây nên sự nói chuyện nhảm nhí, thường gây nên sự tranh tụng trong hội
chúng; hạng ngu si, thiếu kinh nghiệm, phạm nhiều tội, chưa được làm cho thoát
(tội); hạng năng thân cận người tại gia, sống không nghiêm chỉnh lẫn lộn cùng
người tại gia. Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án
treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu này.
[307] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng
bị hư hỏng về giới thuộc tăng thượng giới, hạng bị hư hỏng về hạnh kiểm thuộc
tăng thượng hạnh, hạng bị hư hỏng về tri kiến thuộc tri kiến sái quấy. Này các
tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ
bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu này.
[308] Này các tỳ khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu khác nữa: Hạng
chê bai đức Phật, hạng chê bai đức Pháp, hạng chê bai đức Tăng. Này các tỳ
khưu, nếu muốn hội chúng có thể thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ
tà kiến ác đối với ba hạng tỳ khưu này.
Dứt sáu trường hợp nếu muốn thuộc
hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
[309] Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo trong
việc không từ bỏ tà kiến ác nên làm phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường
hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: Không nên ban phép tu lên bậc trên,
không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, không nên chấp
nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không nên giảng dạy tỳ khưu ni dầu đã được
chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo
trong việc không từ bỏ tà kiến ác, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn
tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự,
đối với vị tỳ khưu trong sạch không nên đình chỉ lễ Uposatha, không nên đình chỉ
lễ Pavāraṇā,
không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên thỉnh ý (để buộc tội), không
nên quở trách, không nên nhắc nhở, (và) không nên cấu kết các tỳ khưu với các tỳ
khưu.
Dứt mười tám phận sự thuộc hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
[310] Sau đó, hội chúng đã thực thi hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác đối với tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng (tức
là) việc không cùng thọ hưởng với hội chúng. Khi được hội chúng thực thi hành sự
án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị ấy đã hoàn tục.
Các tỳ khưu ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ấy phàn nàn,
phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng
khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác lại
hoàn tục?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[311] Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu
tập hội chúng tỳ khưu lại và hỏi các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu Ariṭṭha trước đây là người huấn luyện chim ưng
khi được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác lại
hoàn tục, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- ...(như trên)... Này các tỳ khưu, vì sao kẻ rồ dại ấy khi được
hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác lại hoàn tục?
Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, ...(như trên)...
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ
khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, như vậy thì hội chúng hãy thu hồi hành sự án
treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
[312] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị ban phép
tu lên bậc trên, ban cho phép nương nhờ, bảo sa di phục vụ, chấp nhận sự chỉ định
giảng dạy tỳ khưu ni, giảng dạy tỳ khưu ni khi đã được chỉ định. Này các tỳ
khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với
vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[313] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị
tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ
tà kiến ác, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị chỉ trích
hành sự, chỉ trích các vị thực thi hành sự. Này các tỳ khưu, hành sự án treo
trong việc không từ bỏ tà kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ
năm điều kiện này.
[314] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị đình chỉ
lễ Uposatha, đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, vị sai bảo, cáo tội, thỉnh ý (để buộc
tội), quở trách, nhắc nhở (vị tỳ khưu trong sạch), vị cấu kết các tỳ khưu với
các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
không nên thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp không nên
thu hồi thuộc hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
[315] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: Vị không ban
phép tu lên bậc trên, không ban cho phép nương nhờ, không bảo sa di phục vụ,
không chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỳ khưu ni, không giảng dạy tỳ khưu ni dầu
đã được chỉ định. Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến
ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện này.
[316] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa: Vị
không tái phạm tội đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không
từ bỏ tà kiến ác, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, vị không
chỉ trích hành sự, không chỉ trích các vị thực thi hành sự, Này các tỳ khưu,
hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ
khưu hội đủ năm điều kiện này.
[317] Này các tỳ khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà
kiến ác nên được thu hồi đối với vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện: Vị không đình
chỉ lễ Uposatha, không đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu trong sạch, không sai bảo,
không cáo tội, không thỉnh ý (để buộc tội), không quở trách, không nhắc nhở (vị
tỳ khưu trong sạch), vị không cấu kết các tỳ khưu với các tỳ khưu. Này các tỳ
khưu, hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác nên được thu hồi đối với
vị tỳ khưu hội đủ tám điều kiện này.
Dứt mười tám trường hợp nên thu hồithuộc
hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác
[318] Và này các tỳ khưu, nên thu hồi như vầy: Này các tỳ khưu, vị
tỳ khưu đã được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến
ác ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ
khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng
như vầy:
“Bạch các ngài, được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác, tôi làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu
thúc, làm bổn phận để sửa đổi; giờ tôi thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo
trong việc không từ bỏ tà kiến ác.”
Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba.
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng
thực thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, vị tỳ khưu này tên
(như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để
sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến
ác. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thu hồi hành sự án
treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đây là
lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực
thi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, tỳ khưu này tên (như vầy)
làm bổn phận một cách nghiêm chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi,
giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác. Hội
chúng thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ
khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào
không đồng ý có thể nói lên.
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội
chúng hãy lắng nghe tôi. Được hội chúng thực thi hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác, tỳ khưu này tên (như vầy) làm bổn phận một cách nghiêm
chỉnh, trở nên thu thúc, làm bổn phận để sửa đổi, giờ thỉnh cầu sự thu hồi hành
sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác. Hội chúng thu hồi hành sự án treo
trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào
đồng ý việc thu hồi hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị
tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Hành sự án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác đối với vị tỳ
khưu tên (như vầy) đã được hội chúng thu hồi. Sự việc được hội chúng đồng ý nên
mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
Dứt hành sự án treo trong việc
không từ bỏ tà kiến ác là phần thứ bảy
Dứt Chương Hành Sự là chương thứ
nhất
Trong chương này có bảy sự kiện
Tóm lược chương này:
[319]
Các tỳ khưu thuộc nhóm
tên là Paṇḍuka
và Lohitaka,
bản thân tạo xung đột,
lại đi đến các vị
có sở hành như thế,
và gây ra xung đột
chưa sanh, họ tạo nên,
đã sanh, làm lớn chuyện.
Thiện tỳ khưu, thiểu dục,
phàn nàn bậc Pháp Chủ,
vị duy trì Chánh Pháp,
đức Phật bậc tự tại,
bậc Tối Thượng cho phép
làm hành sự khiển trách
ngài là bậc Chiến Thắng
ở thành Sāvatthi.
Việc ấy được thực thi
thiếu đi sự hiện diện,
khi chưa được tra hỏi,
với sự không thừa nhận.
Việc ấy được thực thi
khi không có phạm tội,
tội không sám hối được,
tội đã được sám hối.
Việc ấy được thực thi
khi chưa được quở trách,
khi chưa được nhắc nhở,
khi chưa xác định tội.
Việc ấy được thực thi
thiếu đi sự hiện diện,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
khi chưa được tra hỏi,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
với sự không thừa nhận,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
khi không có phạm tội,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Việc ấy được thực thi
tội không sám hối được,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
với tội đã sám hối,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
khi chưa được quở trách,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
khi chưa được nhắc nhở,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Và cũng như thế ấy
khi chưa xác định tội,
không theo đúng phương thức,
và chính bởi phe nhóm.
Với trường hợp không đúng,
đúng cách được nghiệm ra.
Khi hội chúng thích hợp
nên thực thi hành sự
khiển trách đến vị ấy,
vị thường gây xung đột,
ngu si, sống chung đụng.
Hội chúng nên thực thi
về hành sự khiển trách
vị thiếu tăng thượng giới,
vị thiếu tăng thượng hạnh,
và kiến thức sái quấy.
Hội chúng nên thực thi
về hành sự khiển trách
tỳ khưu chê bai Phật,
đức Pháp, và đức Tăng.
Hội chúng nên thực thi
về hành sự khiển trách
hạng thường gây xung đột,
ngu si, sống chung đụng.
Cũng y như thế ấy
hạng thiếu tăng thượng giới,
vị thiếu tăng thượng hạnh,
và kiến thức sái quấy,
hạng chê bai đức Phật,
đức Pháp, và đức Tăng.
Bị hành sự khiển trách,
các phận sự đúng đắn
phải làm là như vầy:
Vị thực thi hành sự
không cho tu bậc trên,
không ban phép nương nhờ,
không sa di phục vụ,
không giáo giới các ni
cho dù được chỉ định,
không phạm lại tội ấy,
tội tương tợ như vậy,
hoặc nghiêm trọng hơn thế,
không chỉ trích hành sự,
và các vị kết tội,
không được phép đình chỉ
lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā
của tỳ khưu trong sạch,
sai bảo, việc cáo tội,
việc thỉnh ý, quở trách,
nhắc nhở, tạo bè phái,
các việc như thế ấy
là không được thực hành.
Không thu hồi hành sự
với năm điều kiện này:
Vị cho tu bậc trên,
ban cho phép nương nhờ,
để sa di phục vụ,
giáo giới tỳ khưu ni
cho dù được chỉ định,
vị phạm lại tội ấy,
tội tương tợ như vậy,
hoặc nghiêm trọng hơn thế,
vị chỉ trích hành sự,
luôn các vị thực thi
không nên được thu hồi.
Lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā,
sai bảo, việc cáo tội,
việc thỉnh ý, quở trách,
nhắc nhở, tạo bè phái,
vị phạm tám điều này,
không nên thu hồi lại
hành sự khiển trách được.
Với trường hợp không đúng,
đúng cách được nghiệm ra.
Seyyasa ngu si,
là vị phạm nhiều tội,
lại còn sống chung đụng,
vị Chánh Đẳng Chánh Giác
là bậc đại hiền triết
đã cho phép thực thi
về hành sự chỉ dạy.
Các tỳ khưu thuộc nhóm
hai vị Assaji
Punabbasukā
ở Kiṭāgiri
không thu thúc, còn làm
việc sai trái các loại.
Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác,
ban hành sự xua đuổi,
ngài là đấng Chiến Thắng
ở thành Sāvatthi.
Vị Sudhamma ở
Macchikāsaṇḍa
thường trú của Citta.
Sudhamma mắng nhiếc
đến gia chủ Citta.
Vì câu chuyện sanh ra,
đấng Thiện Thệ cho phép
làm hành sự hòa giải.
Bậc Chiến Thắng tối thượng
đã cho phép án treo
trong việc không thấy tội
với tỳ khưu Channa
ở thành Kosambī
do không nhìn nhận tội.
Channa không sửa đổi
với chính tội lỗi ấy,
vị lãnh đạo cho phép
về hành sự án treo
trong việc không sửa chữa.
Ariṭṭha đã khởi
tà kiến ác, thiếu trí,
bậc Chiến Thắng cho phép
về hành sự án treo
do không bỏ ác kiến.
Giống hành sự chỉ dạy,
xua đuổi, và hòa giải,
không nhìn nhận, sửa chữa,
không từ bỏ tà kiến.
Việc đùa giỡn sai trái,
sở hành làm tổn hại,
và nuôi mạng sái quấy,
các điều phụ trội này
thuộc hành sự xua đuổi.
Mất lợi lộc, chê bai
tức là hai nhóm năm,
có tên “hai nhóm năm,”
các điều phụ trội này
thuộc hành sự hòa giải.
Việc khiển trách, nương nhờ,
thuộc hai hành sự ấy
được qui định tương tợ.
Trong xua đuổi, hòa giải,
là có điều phụ trội.
Ba hành sự án treo,
được phân tích tương tợ.
Theo đúng ở phương thức
của hành sự khiển trách,
các hành sự còn lại
như vậy được nghiệm ra.
Hết Chương Hành Sự - Xem tiếp Chương 2
Quay về Mục Lục Tiểu Phẩm
Quay về Mục Lục Tạng Luật
0 Comments