Hành Trình Vô Ngã by Vô Ngã Vô Ưu
Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikàya)- Tập 10
Chuyện Tiền Thân Đức Phật Số 7 (Jàtaka)
Nguyên bản: Pàli
Anh dịch: H.T. Francis, E.B. Cowell & W.H. Rouse
(Pali Text Society - Hội Kinh Tạng Pali, Luân Ðôn, Anh Quốc)
Việt dịch: Nguyên Tâm Trần Phương Lan
(Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam)
Chương 22 - ĐẠI PHẨM
545. Chuyện Bậc Đại Trí Vô
Song (Tiền Thân Vidhurapandita)
Yếu gầy, ái hậu lại xanh xao…,
Bậc Đạo Sư kể câu chuyện này khi Ngài trú ở
Kỳ Viên (Jetavana), liên quan đến sự Viên mãn của Trí tuệ tối thắng.
Một ngày kia các Tỷ kheo đưa ra một vấn đề tranh luận tại Chánh
pháp Đường, bảo nhau:
- Này các Hiền giả, Bậc Đạo Sư đã đạt đại
trí, quảng trí, Ngài thật tinh thông, ứng đối mau lẹ, nhạy bén, lý giải sắc xảo
và có khả năng đánh đổ mọi biện luận của các đối thủ của Ngài, nhờ uy lực Thắng
trí của Ngài, Ngài đã phá tan những vấn đề nan giải do các vị hiền trí Sát-đế-ly
đưa ra và khiến họ phải yên lặng chấp nhận. Sau khi an trú họ vào Tam quy và
Ngũ giới, Ngài dạy họ con đường đưa Niết-bàn bất tử.
Bậc Đạo Sư đi vào, hỏi các Tỷ kheo đang ngồi bàn luận đề tài gì và khi
nghe vậy, Ngài bảo:
- Này các Tỷ kheo, Như Lai sau khi đạt Trí tuệ Viên mãn,
đã phá tan mọi lý luận của các đối thủ và giáo hóa các vị vua Sát- đế- ly cùng
nhiều vị khác, việc chẳng phải kỳ diệu gì. Vì từ ngàn xưa khi Ta còn đang tầm cầu
Trí tuệ Tối thượng, Ta đã đầy đủ trí tuệ để phá kiến các đối thủ. Hơn thế nữa,
chính vào thời Vidhurakumàra, trên đỉnh Hắc Sơn, cao chừng sáu mươi dặm, nhờ uy
lực Thắng trí của Ta, Ta đã hàng phục Đại tướng Dạ-xoa Punnaka, khiến y phải chịu
im lặng và đem sinh mạng cúng dường.
Nói xong Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
I. Trai giới bốn pháp
Ngày xưa tại quốc độ Kuru (Câu-lâu) thành
Indapatta có vi quốc vương cai trị với danh hiệu Dhanañjaya-Korabba. Ngài có vị
Đại thần tên gọi Vidhurapandita (Trí giả Vô song) cố vấn cho Ngài trong các thế
sự cũng như thánh sự. Nhờ lời lẽ êm ái và biện tài siêu việt lúc thuyết Pháp,
ông lôi cuốn mọi quốc vương ở cõi Jambudìpa (Diêm-phù-đề: Ấn độ) bằng những
Pháp thoại du dương như các con voi say mê đàn sáo êm dịu, ông cũng không để
cho các quốc vương trở về nước mình mà ở lại trong kinh thành đại vinh quang ấy
và thuyết Pháp cho dân chúng với thần lực của một vị Phật.
Lúc bấy giờ có bốn gia chủ Bà-la-môn giàu
sang tại Ba-la-nại, vốn là thân hữu, đã thấy được cảnh khổ của mọi dục vọng,
nên bỏ vào vùng Tuyết Sơn sống đời ẩn sĩ khổ hạnh.
Sau khi đã đạt được các Thắng trí và các Thiền
chứng, các vị ấy cũng vẫn tiếp tục tu hành tại đó, hằng ngày sống bằng các thứ
củ, quả rừng. Hôm đó các vị ấy du hành để khất thực muối và các thứ gia vị,
cũng đến thành Kàlacampa thuộc quốc độ Anga. Rồi bốn gia chủ vốn là thân hữu với
nhau, rất hoan hỷ trước oai nghi của các vị này, họ cung kính đảnh lễ xong cầm lấy
cái bình bát cúng dường các món ăn tuyệt hảo, mỗi gia chủ đều mời các vị về nhà
mình, tự nguyện sắp đặt nơi an trú cho các vị trong hoa viên.
Thế là bốn vị ẩn sĩ, sau khi thọ thực trong
nhà bốn vị gia chủ, liền du hành suốt ngày hôm ấy, một vị lên cõi trời Ba mươi
ba, một vị khác lên cõi Long vương (Nàga), một vị khác lên cõi Kim sí điểu
vương (Supanna)và vị thứ tư đến ngự viên Migàcira thuộc quyền của vua Koravya.
Lúc bấy giờ, vị được hưởng một ngày ở Thiên
giới, sau khi chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng của Thiên chủ Đế-Thích (Sakka), miêu
tả thật đầy đủ chi tiết cho thí chủ mình nghe. Vị lên cõi Long vương và Kim sí
điểu vương Supanna cũng vậy, rồi vị đến ngự viên của vua Koravya Dhanañijaya
cũng lần lượt miêu tả cảnh huy hoàng của mỗi cung vua đã chứng kiến. Vì vậy cả
bốn thí chủ đều nguyện cầu được cộng trú với chư Thiên, nên sau khi thực hành bố
thí cùng nhiều công đức khác, đến lúc mạng chung, một vị sinh làm Thiên chủ Đế
Thích; một vị khác cùng với vợ con sinh vào cõi Long vương; một vị nữa sinh làm
Kim sí điểu Supanna trong cung điện dưới hồ Simbali; còn vị thứ tư được nhập mẫu
thai chánh hậu của vua Dhanañjaya, trong lúc ấy bốn vị ẩn sĩ được sinh lên Phạm
Thiên giới.
Vương tử Koravya lớn khôn, đến khi vua cha từ
trần, lên ngôi trị vì rất đúng pháp, nhưng ngài còn lừng danh vì tài nghệ đánh
súc sắc. Ngài nghe lời khuyến giáo của Trí giả Vidhura chuyên tâm bố thí, giữ
gìn giới hạnh và hành trì trai giới.
Một ngày kia, sau khi hành trì trai giới
xong, ngài vào ngự viên, nhất tâm tu tập thiền định, tĩnh tọa ở một nơi an tịnh,
ngài thực hành giới hạnh của một vị xuất gia.
Đế Thích (Sakka) cũng vậy, sau khi hành trì
trai giới, nhận thấy thiên giới có nhiều trở ngại cho việc tu tập, liền đi xuống
hoa viên ấy ở cõi nhân gian, tĩnh tọa ở một nơi an tịnh và hành trì Sa-môn hạnh.
Long vương Varuna cũng thế, sau khi hành trì
trai giới, nhận thấy cõi Long vương có nhiều trở ngại cho việc tu tập, nên cũng
lại vào hoa viên ấy, ngồi tĩnh tọa ở một nơi an tịnh thực hành Sa-môn hạnh.
Điểu vương Supanna cũng vậy, sau khi hành
trì trai giới, nhận thấy rằng cõi Điểu vương có nhiều trở ngại cho việc tu tập,
nên ngài đi vào ngự viên ấy, tĩnh tọa ở một nơi êm mát, thực hành Sa-môn hạnh.
Lúc bấy giờ, cả bốn vị ẩn sĩ vào buổi xế chiều,
sau khi đứng dậy từ chỗ độc cư thiền định đến bên hồ nước của hoàng gia, nhìn
nhau, tâm đầy tình cố tri thân ái, cùng ngồi xuống chào hỏi rất niềm nở.
Thiên chủ Sakka ngồi trên vương tọa, còn ba
vị kia ngồi theo danh vị của mình. Lúc ấy Sakka Thiên chủ liền hỏi:
- Chúng ta đây đều là bốn vị đế vương, vậy
công đức đặc biệt nhất của mỗi vị là gì?
Long vương Varulna đáp lời:
- Đức hạnh của Ta cao trọng hơn các Tôn giả.
Khi ba vị kia hỏi lý do, ngài đáp:
- Điểu vương Supanna này là cừu thù của ta,
dù khi ta chưa ra đời hay ra đời rồi cũng vậy, thế mà khi nhìn thấy một kẻ cừu
thù tiêu diệt nòi giống của ta như thế, ta không hề có chút sân hận, cho nên đức
hạnh của ta là cao hơn cả.
Rồi ngài đọc vần kệ đầu tiên trong Tiền thân
Catuposatha (Trai giới bốn phần số 441).
1. Thiện nhân không cảm thấy hờn căm,
Đối với một ai đáng hận sân,
Không để nội tâm sân khởi dậy,
Vị nào dù lúc giận trong lòng,
Cũng không để lộ cho người thấy,
Người gọi đó là thanh tịnh nhân.
Đặc tính của ta là như thế, cho nên đức hạnh
của ta vượt trên các Tôn giả.
Điểu vương Supanna nghe vậy, liền đáp:
- Loài rồng Nàga là thức ăn chính của ta,
nhưng nay dù thấy thức ăn kề tận miệng, ta cũng đành nhịn đói và quyết không
làm ác vì miếng ăn, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.
Và ngài ngâm bài kệ:
2. Người chịu đói, bụng đau rần,
Ẩn sĩ tự điều phục món ăn,
Không phạm ác hành vì thực phẩm,
Vị này, người gọi bậc Sa-môn.
Đến lượt Thiên chủ Sakka nói:
- Ta để lại đằng sau mình mọi vinh quang ở
thiên giới, mọi nguồn an lạc dâng tận tay, để xuống nhân gian thực hành công hạnh,
vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.
Rồi ngài ngâm kệ:
3. Sau khi bỏ mọi thứ vui chơi,
Không nói lời gian dối giữa đời,
Vị ấy ghét xa hoa, nhục dục,
Như vầy người gọi Sa-môn rồi.
Thiên chủ Sakka tự trình bày công đức của
mình như vậy. Rồi vua Dhanañjaya bảo:
- Nay ta đã rời triều đình cùng hậu cung với
mười sáu ngàn phi tần có đủ tài ca múa, ta hành trì Sa-môn hạnh trong ngự viên
này, vậy đức hạnh của ta cao hơn cả.
Rồi ngài ngâm kệ tiếp theo:
4. Bậc toàn trí bỏ hết hoàn toàn,
Mọi sở hữu và mọi dục tham,
Tự chế, kiên tâm, vô ngã chấp,
Vị này người gọi bậc Sa-môn.
Như vậy cả bốn vị đều tự cho đức hạnh của
mình là cao quý hơn cả, rồi vua hỏi Dhanañjaya:
- Này Đại vương, có bậc hiền trí nào trong
triều có thể giải mối nghi này chăng?
- Này các Đại vương, có chứ, trẫm có bậc Trí
giả Vidhura đang giữ một chức vụ tối thượng trong triều, thường xuyên thuyết thế
pháp cũng như thánh pháp cho trẫm, vị ấy có thể giải quyết mối nghi này, ta hãy
cùng đi đến vị ấy.
Bốn vị vua tức thì đồng ý. Thế là bốn vị đều
ra đi khỏi ngự viên, tiến về phía Thánh lễ đường, ban lệnh trang hoàng nơi ấy
thật uy nghi, xong hội chúng kính mời Bồ-tát ngồi trên bảo tọa, chào ngài thật
thân hữu rồi ngồi qua một bên và nói:
- Thưa bậc Trí giả, một mối nghi vừa khởi
lên trong tâm chúng ta, xin ngài giải quyết cho:
5. Xin hỏi đại thần thượng trí minh,
Trong khi đàm đạo, khởi phân tranh,
Nhờ khanh xét, giải nghi nan ấy,
Hội chúng thoát nghi hoặc bởi khanh!
Bậc Đại Sĩ nghe xong liền bảo:
- Tâu các Đại vương, làm sao tiểu thần biết
các Đại vương nói đúng hay sai về đức hạnh của các Đại vương, trong khi các
ngài ngâm lời kệ qua cuộc tranh luận này?
Rồi ngài ngâm kệ thêm:
6. Bậc trí biết chân tướng việc đời,
Nói năng khôn khéo, đúng theo thời,
Nhưng dù hiền trí, làm sao biết,
Ý nghĩa kệ chưa nói với tôi?
Vương tử Vi-na, Kim sí điểu,
Long vương ấy nói thế nào rồi?
Thác- bà vương, tối cao Hoàng thượng,
Của xứ Câu-lâu, hãy mở lời!
Các vị vua liền ngâm kệ này với ngài:
7. Kham nhẫn, Long vương thuyết giảng xong,
Vương tử Vi-na, Sí điểu vương,
Lại thuyết giảng về lòng tốt đẹp,
Thác-bà vương thuyết đoạn trừ tham,
Câu lâu Chúa thượng ly triền cái,
Để đạt đến công hạnh vẹn toàn.
Sau khi nghe xong, bậc Đại Sĩ đáp kệ này:
8. Tất cả lời này chánh đáng thay,
Không gì sai trái ở nơi này,
Người nào thích hợp lời như thế,
Giống các tăm xe ở trục quay,
Người được gọi Sa-môn chánh hạnh,
Đủ đầy các đức tính trên đây.
Như vậy bậc Đại Sĩ tuyên thuyết đức hạnh của
các vị vương đều là một. Khi nghe xong, bốn vị vương đều rất hoan hỷ, liền ngâm kệ tán thán ngài:
9. Khanh là bậc tối thắng, vô song,
Hộ pháp, tinh thông luật, trí nhân,
Khi hiểu vấn đề nhờ trí tuệ,
Với tài khéo cắt mọi nghi nan,
Giống như người thợ ngà voi nọ,
Cắt với lưỡi cưa thật dễ dàng!
Thế là cả bốn vị vua đều rất đẹp ý với lời
giải thích vấn đề của ngài. Thiên chủ Sakka thưởng ngài chiếc cẩm y bằng gấm
thiên đình, Kim sí điểu vương tặng ngài tràng hoa bằng vàng, Long vương Varuna
tặng ngài hạt minh châu và vua Dhanañjaya ban thưởng một ngàn con bò cái v.v..Rồi
vua Dhanãnjaya lại ngâm kệ với ngài:
10. Một ngàn bò cái, trẫm truyền ban,
Một thớt voi, bò đực một chàng,
Mười cỗ xe và đàn ngựa quý,
Thêm mười sáu đệ nhất thôn làng,
Bởi vì trẫm thật đầy hoan hỷ,
Cách giải vấn đề của Trí nhân!
Sau đó Sakka Thiên chủ cùng các vị kia cung
kính đảnh lễ bậc Đại Sĩ và từ giã ra về cảnh giới của mình. Đến đây kết thúc Phần
Trai giới Bốn pháp.
II. Ước vọng của chánh hậu Vimalà
Lúc bấy giờ chánh hậu của Long vương là bà
Vimalà. Khi thấy ngài không đeo minh châu trên cổ, liền hỏi thăm hạt châu ở
đâu. Ngài đáp:
- Trẫm rất hài lòng khi nghe bài thuyết Pháp
của bậc Trí giả Vidhura, vị nam tử của Bà-la-môn Canda, nên đã tặng minh châu
cho vị ấy, không những chỉ riêng trẫm, mà Thiên chủ Sakka cũng cũng cung kính tặng
ngài chiếc thiên y bằng gấm trời, Điểu vương tặng tràng hoa bằng vàng, còn vua
Dhanañjaya tặng một ngàn con bò cùng nhiều thứ khác nữa.
- Vậy thì thần thiếp đoán vị ấy là một bậc
biện tài về Chánh pháp.
- Này ái hậu, ái hậu đang nói gì vậy? Vị này
chẳng khác nào một vị Phật xuất hiện ở cõi Diêm-phù-đề. Hằng trăm vị vua ở khắp
cõi Diêm-phù-đề say sưa những lời lẽ êm dịu của vị ấy, không còn muốn trở về
triều nữa, chẳng khác nào bầy voi rừng mê mẩn vì tiếng đàn cầm mà chúng yêu
thích vậy. Đó là đặc điểm của tài hùng biện của ngài.
Khi bà nghe nói đến kỳ tài của ngài như vậy,
bà ước mong nghe ngài thuyết Pháp, bà nghĩ thầm: Nếu ta tâu với đức vua rằng ta
muốn nghe vị ấy thuyết Pháp và xin đức vua triệu vị ấy về đây, chắc đức vua sẽ
không thuận; chi bằng ta thử giả bệnh và than thở về nỗi ao ước của một nữ bệnh
nhân.”
Bà liền ra hiệu cho thị nữ đem bà lên tọa
sàng. Khi vua không thấy bà vào dịp ngài đến vấn an bà và hỏi các thị nữ bà ở
đâu, chúng tâu rằng bà bị bệnh, ngài liền đến thăm, ngồi bên giường bà, xoa
thân thể bà và ngâm kệ:
11. Yếu gầy, ái hậu lại xanh xao,
Dung sắc chẳng như trước chút nào,
Nào hỡi Vi-ma-là, hãy đáp:
Nỗi đau này đến bởi vì sao?
Bà đáp ngài qua vần kệ sau:
12. Có một bệnh riêng của nữ nhân,
Gọi là ước vọng, tấu Long quân,
Thiếp mong đem đến đây không dối,
Tim của Vi-dhu-ra Trí nhân!
Long vương bảo bà:
13. Ái hậu ước trời, trăng, gió mây,
Gặp Hiền nhân ấy khó khăn thay!
Nào ai có đủ tài năng để,
Đem bậc hiền nhân ấy đến đây?
Khi bà nghe nói vậy, liền nói to:
- Nếu không được như ý thần thiếp sẽ chết mất.
Rồi bà quay mặt đi, nghiêng lưng bà ra
ngoài, lấy chiếc áo quay mặt lại. Vua trở về tư thất ngồi trên tọa sàng suy
nghĩ tìm hiểu vì sao hoàng hậu Vimalà lại muốn có trái tim của Vidhura:
"Nàng sẽ chết nếu không ăn được tim vị ấy, vậy làm sao ta lấy được nó cho
nàng?.”
Lúc bấy giờ công chúa Irandatì, một long nữ
diễm kiều, trang sức đầy ngọc vàng trân bảo, bước vào cung kính đảnh lễ vua
cha, rồi đứng qua một bên. Nàng trông thấy vua cha có vẻ lo âu, liền nói:
- Phụ vương có vẻ muộn phiền quá, vì duyên cớ
gì?
14. Thân phụ, sao cha dáng rối ren,
Long nhan như một đóa hoa sen,
Bị tay ngắt vụng, sao buồn khổ,
Bậc chiến thắng, xin chớ muộn phiền!
Nghe lời con gái, Long vương đáp:
15. I-ran-da hỡi, mẫu thân con,
Ao ước trái tim bậc Trí nhân,
Diện kiến Vi-dhu-ra thật khó,
Triệu ngài, ai có đủ tài năng?
Rồi ngài lại bảo nàng:
16. Này con, không có một triều thần,
Ðủ sức triệu Vi-dhu Trí nhân,
Con hãy hy sinh vì mẫu hậu,
Ði tìm ra một vị phu quân!
Thế là vua ra lệnh cho nàng lui ra cùng với
câu kệ, gợi nên những tư tưởng không phù hợp với một nàng công chúa:
17. "Hãy tìm cho được một phu quân,
Chàng sẽ triệu hồi bậc Trí nhân."
Công chúa đi ngay đêm tối ấy,
Ðể cho dòng dục vọng tuôn tràn.
Nàng đi hái các hoa trên Tuyết Sơn đủ sắc,
hương, vị. Sau khi trang hoàng toàn thể ngọn núi như một viên bảo ngọc, nàng trải
tọa sàng bằng hoa trên núi, rồi nhảy múa tưng bừng, nàng trỗi giọng ca một điệu
rất êm ái du dương:
18. Càn-thát-bà hay đại lực thần,
Long thần, quái vật hoặc tiên, nhân,
Bậc hiền, tài đủ ban điều ước,
Ai sẽ làm chồng tiện nữ chăng?
Lúc bấy giờ cháu của Ðại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn),
tên gọi Punnaka, là một đại tướng Yakkha (Dạ-xoa, thần Ðại lực) đang phi thần
mã Sindh dài ba dặm, băng qua triền núi đỏ tía của ngọn Hắc Sơn, để đến nơi hội
họp của các thần Dạ-xoa, chợt nghe lời ca của nàng, và lời ca của nữ nhân này
chàng đã từng nghe trong đời vừa qua xoáy sâu tận thịt da cân não chàng, thấm
vào tận xương tủy khiến chàng ngơ ngẩn say mê, liền quay ngựa lại, ngồi trên
lưng thần mã, chàng vội an ủi nàng:
- Ôi nương tử, ta xin vì nàng đem trái tim của
Vidhura đến đây bằng trí lực của ta, bằng thần lực cũng như bằng tính trầm tĩnh
của ta, xin nàng chớ lo ngại việc đó nữa.
Rồi chàng ngâm thêm kệ này:
19. Long nữ có đôi mắt diệu huyền,
Hãy an tâm nhé, hỡi nàng tiên,
Quả nhiên tài trí ta như vậy,
Ta sẽ cùng nàng đẹp mối duyên.
Thế là Irandatì trả lời, nàng suy nghĩ theo
kinh nghiệm xa xưa của một lần được cầu hôn trong đời trước của nàng:
- Xin chàng đến đây cùng với thiếp đi yết kiến
phụ vương, ngài sẽ giải thích việc này cho chàng rõ.
Rồi điểm trang lộng lẫy với xiêm y rực rỡ,
chói lòa, đeo tràng hoa, xức dầu đàn hương xong, nàng nắm tay thần Dạ-xoa đem đến
yết kiến vua cha.
Và tướng Punnaka đỡ lấy lưng nàng, cùng đi yết
kiến cha nàng là Long vương xin cầu hôn công chúa:
20. Long vương, nghe lấy lời cầu hôn,
Nhận sính lễ cân xứng quý nương,
Thần hỏi I-ran-da ngọc nữ,
Hãy ban công chúa thuộc về thần,
Một trăm voi với trăm con ngựa,
Trăm cỗ xe và la một trăm,
Ngọc quý trăm kho, xin nhận hết,
Ban thần công chúa, tấu Long quân!
Long vương liền phán bảo:
- Hãy đợi ta hỏi ý kiến vương tộc, thân bằng
quyến thuộc; làm việc gì mà không hỏi ý kiến kẻ khác sẽ đem lại hối tiếc về
sau.
Long vương vào cung, hỏi ý kiến Vương hậu:
- Thần Dạ-xoa Punnaka muốn cầu hôn công chúa
Irandatì, vậy ta có nên gả con để đổi lấy vô số của cải ấy không?
Vương hậu Vimalà đáp:
- Không ai chinh phục được công chúa
Irandatì bằng ngọc vàng châu báu cả, nếu vị ấy có đủ tài năng đem trái tim của
Trí nhân Vidhura đến đây thì sẽ chinh phục được công chúa bằng bảo vật ấy, chứ
chúng ta không đòi thêm của cải nào khác.
Thế là Long vương Varuna bước ra khỏi cung,
hội ý với Punnaka, và bảo chàng:
- Công chúa Irandatì không thể được chinh phục
bằng ngọc vàng châu báu, nếu chàng có đủ tài năng đem lại đây quả tim của Trí
nhân Vidhura, chàng sẽ chiếm được công chúa bằng bảo vật đó, chúng ta không đòi
thêm của cải gì.
Punnaka đáp lời:
- Có người được kẻ này gọi là hiền nhân thì
kẻ khác lại gọi là "ngốc tử", vì nhân thế có nhiều ý kiến khác nhau về
một vấn đề như vậy. Vậy xin Ðại vương cho tiểu thần biết rõ ai là người được Ðại
vương gọi là Trí nhân?
Long vương đáp:
- Nếu chàng có nghe danh tiếng Vidhura, đại
thần của vua Dhanañjaya, thì hãy đem vị ấy về đây, công chúa Irandatì sẽ là
chánh thê của chàng.
Khi nghe Long vương Varuna nói vậy, thần Dạ-xoa
nhảy lên reo mừng, tức thì bảo quân hầu cận của chàng:
- Hãy đem tuấn mã đầy đủ yên cương lại đây cho
ta. Tai ngựa đeo vàng, móng ngựa đeo ngọc, áo giáp bằng vàng.
Quân hầu vội đem tuấn mã Sindh trang sức đầy
đủ như gã đã ra lệnh và Punnaka cưỡi tuấn mã phi nhanh qua bầu trời về đến cung
vua Vessavana, kể lại cho ngài nghe chuyến phiêu lưu của chàng và do đó mô tả cảnh
giới Long vương.
Việc này được diễn tả như sau:
Punnaka lên ngựa, một tuấn mã đủ năng lực
mang các Thiên thần, chàng trang sức thật sang trọng, đầy ngọc ngà trân bảo,
râu tóc tỉa thật gọn gàng, rồi phi nhanh qua bầu trời.
Lòng chàng đầy ước vọng đắm say, khao khát
chiếm được Long nữ Irandatì, chàng tìm đến Ðại vương Vessavana Kuvera, tâu
trình:
- Có cung thất Bhogavati được gọi là Kim Ðường,
đó là kinh thành của Long vương được xây trong thành trì bằng vàng.
Các tháp canh có hình môi và cổ, với hồng ngọc
và bảo châu màu lục nhãn, cung điện xây bằng cẩm thạch đầy đủ vàng ròng, bao phủ
bằng ngọc chạm vàng.
Các cây xoài, tilaka, hồng đào, sattapanna,
mucalinda, ketaka, piyaka, uddàlaka, saha và sinduvàrita với muôn hoa khoe sắc
thắm trên bầu trời.
Các cây hoa champac, nàgamàlika, bhaginimàlà
và táo nặng trĩu lá cành, mang lại vẻ diễm kiều cho cung điện Long vương.
Lại có một cây chà là khổng lồ bằng ngọc quý
và hoa vàng không bao giờ tàn, đó là nơi ngự trị Long vương Varuna đầy đủ oai
thần và được sinh từ Thiên giới.
Cũng là nơi ngự trị của hoàng hậu Vimalà với
hình dáng mềm mại như cây leo bằng vàng, thanh thanh như cây kàlà mới mọc, yêu
kiều với bộ ngực như đôi quả nimba.
Da mượt mà tô điểm bằng son tươi thắm tựa hồ
cây Kanikàra nở hoa trong bóng mát, như một nữ thần trên thiên giới, như ánh chớp
lóe sáng giữa vầng mây. Bà đang say sưa tràn trề niềm ước vọng lạ lùng, bà mong
có được quả tim của Vidhura Hiền sĩ. Tiểu điệt xin đem nó lại cho các vị ấy,
tâu Ðại vương, rồi họ sẽ gả công chúa Irandatì cho tiểu điệt.
Vì không dám ra đi nếu không được lệnh của Ðại
vương Vessavana, nên chàng ngâm các bài kệ trên để đức vua nghe chàng vì ngài
đang bận dàn xếp một cuộc tranh chấp về một cung điện giữa hai vị Thiên tử.
Punnaka biết rằng lời chàng nói không được vua để ý đến nên chàng lại gần một
trong hai vị đang tranh chấp nắm phần thắng lợi trong cuộc. Vua Vessavana sau
khi đã quyết định xong, không để ý đến vị Thiên tử bại cuộc mà chỉ bảo vị kia:
- Chàng hãy đi về cung điện mà an trú.
Ngay khi ngài bảo:
- Chàng hãy đi.
Punnaka liền gọi vài vị Thiên tử làm chứng
và bảo:
- Các vị xem thấy ta đã được Ðại vương phái
đi rồi.
Lập tức chàng ra lệnh đem tuấn mã đến và leo
lên yên ngựa khởi hành.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Sau khi Punnaka từ giã Vessavana Kuvera, Ðại
đế vinh quang của mọi loài, liền ra lệnh cho cận thần:
- Mang thần mã lại đây đầy đủ yên cương, với
tai đeo vòng, mông đeo ngọc, áo giáp bằng vàng dát sáng ngời.
Punnaka leo lên tuấn mã dành cho thiên thần,
chàng trang điểm râu tóc thật oai vệ, rồi phi nhanh qua bầu trời.
Trong lúc vân du, chàng nghĩ: "Trí giả
Vidhura có đám cận vệ rất đông, nên không dễ gì bắt được ông. Tuy thế, vua
Dhanañjaya lại nổi tiếng về tài đánh súc sắc. Ta sẽ đánh thắng vua này qua ván
bài rồi bắt lấy Vidhura. Hiện nay có rất nhiều ngọc quý trong kho của ngài, chắc
ngài không đánh cuộc bằng giải hèn mọn đâu. Ta sẽ phải đem viên ngọc vô giá, vì
vua này không nhận viên ngọc tầm thường đâu. Hiện nay có viên bảo châu vô giá
thuộc quyền vua Chuyển luân ở trong núi Vepulla gần thành Vương Xá; ta sẽ đến lấy
bảo ngọc ấy và dụ vua chơi bài để thắng ngài.”
Rồi chàng thực hành ý định ngay.
Bậc Ðạo Sư kể toàn thể câu chuyện:
Chàng đến thành Vương Xá đầy lạc thú, kinh
thành xa xôi của nước Anga, trù phú lương thực, tràn trề thức ăn uống. Chẳng
khác gì Masakkaràsa, kinh thành của Thiên chủ Indra, dậy âm thanh của bầy công,
hạc, với hoa viên tráng lệ bao quanh, muôn loài chim ca hót giống như Tuyết Sơn
bao phủ đầy hoa. Thế là Punnaka trèo lên núi Vepulla với các đỉnh núi đá chồng
chất, nơi các quỷ thần cư ngụ, chàng đi tìm bảo ngọc đầy hào quang, và cuối cùng
chàng thấy nó nằm giữa lòng núi.
Khi chàng nhìn thấy viên bảo ngọc chiếu hào
quang rực rỡ, diễm lệ muôn phần, chẳng khác nào tia chớp sáng lòa không gian,
chàng vội vàng chụp lấy viên như ý bảo châu vô giá kia, leo lên thần mã vô song
địch, và tướng mạo chàng thật tuấn tú cao sang, chàng phi nhanh qua bầu trời vô
tận.
Chàng đến kinh thành Indàpatta, giáng lâm tại
triều đình xứ Kuru (Câu-Lâu), dũng tướng Dạ-xoa liền triệu tập một trăm chiến
sĩ tại đó:
21. Ai muốn chiếm phần thưởng đế vương?
Ai, ta sẽ thắng cuộc tranh hùng?
Vô song bảo ngọc nào ta đoạt?
Ai sẽ chiếm ưu hạng bảo trân?
Chàng nói lên bốn câu kệ tán thán Ðại vương
Koravya như vậy. Vua nghĩ thầm: "Ta chưa từng nghe một vị anh hùng nào mở
lời ca ngợi như thế này, vậy vị này là ai đây?" Và ngài liền hỏi chàng qua
vần kệ này:
22. Công tử sinh ra quốc độ nào,
Lời này chẳng phải Ko-ra đâu,
Chàng hơn tất cả về hình tướng,
Cho biết quý danh, quyến thuộc mau.
Chàng suy nghĩ : Nhà vua hỏi danh tánh của
ta, hiện nay chỉ là tùy tướng phục dịch Punnaka song nếu ta bảo ta là Punnaka,
vua sẽ nói: gã kia chỉ là một tùy tướng, tại sao gã dám nói với ta quá bạo gan
như vậy? Và vua sẽ khinh thị ta, thôi ta sẽ nói cho ngài nghe danh tánh của ta
trong đời sống vừa rồi.” Thế là chàng ngâm kệ:
23. Tiểu sinh tên gọi Kac-cà-na,
Người chẳng gọi tên khác xấu xa,
Thần đến đây tìm trò giải trí,
Thân bằng, quyến thuộc ở An-ga.
Vua liền hỏi:
- Thế Công tử định trao ta vật gì nếu Công tử
bại cuộc? Công tử đã có những gì nào?
Rồi vua ngâm kệ:
24. Ngọc gì Công tử có trong tay,
Mà kẻ thắng mong được có ngay?
Một vị vua nhiều châu ngọc quý,
Chàng nghèo sao dám thách như vầy?
Punnaka đáp:
25. Ðây ngọc làm say đắm cõi lòng,
Huy hoàng bảo ngọc tạo vinh quang;
Người nào thắng chiếm vô song mã,
Mọi địch thủ, thần mã phá tan.
Khi vua nghe chàng nói, liền đáp:
26. Một viên ngọc ích lợi gì chăng?
Một tuấn mã sao lập chiến công?
Vua chúa có nhiều viên ngọc quý,
Và nhiều tuấn mã tốc như phong!
III. ÐẶC TÍNH CỦA BẢO CHÂU NHƯ Ý
Khi nghe lời vua phán, chàng thưa trình:
- Tâu Ðại vương, tại sao Ðại vương lại nói vậy?
Chỉ có một thần mã và cũng có cả ngàn cả vạn tuấn mã khác; chỉ có một bảo châu
và cũng có cả ngàn bảo châu khác; nhưng mọi tuấn mã hiệp lực lại cũng không
sánh được với thần mã này, xin Ðại vương xem sức phi nhanh của nó đây.
Nói xong, chàng lên ngựa phi trên đỉnh trường
thành và bức trường thành bảy dặm này tựa hồ được vây quanh bởi bầy ngựa kề cổ nhau
trùng trùng điệp điệp, rồi chẳng bao lâu chẳng còn phân biệt được đâu là ngựa,
đâu là thần Dạ-xoa nữa, mà chỉ còn thấy dải lụa hồng trên lưng chàng như thể phủ
khắp trường thành.
Rồi chàng xuống ngựa, tâu vua rằng bây giờ
vua đã chứng kiến sức phi nhanh của thần mã, chàng lại xin vua chứng kiến một
chuyện kỳ lạ khác: chàng bảo thần mã phi nhanh trong hoa viên của kinh thành,
trên mặt nước, ngựa phóng nhanh không ướt đến móng chân; rồi chàng lại bảo ngựa
dạo bước trên đám lá sen và khi chàng vỗ tay, xòe bàn tay ra, ngựa liền đến đứng
trên lòng bàn tay chàng. Sau đó chàng lại nói:
- Ðây chính là ngựa báu, tâu Ðại vương.
- Ðúng vậy, thưa Công tử.
- Giờ đây xin hãy để ngựa báu qua một bên
trong chốc lát, xin Ðại vương hãy xem thần lực của bảo châu. Tâu Chúa thượng,
xin ngài ngự lãm viên bảo châu vô song địch của tiểu sinh: Trong bảo châu này
có đủ thân hình nam nhân cùng nữ nhân, thân hình của thú vật, cùng thân hình của
chim muông, Long vương và Ðiểu vương, tất cả muôn loài đều hiện ra trong bảo
châu này.
Cả một đàn voi, một đàn xe ngựa, quân sĩ, cờ
xí, xin Chúa thượng ngự lãm cả đoàn kỵ mã, vệ sĩ của vua, chiến sĩ đang chiến đấu
trên cỗ xe, chiến sĩ chiến đấu trên bộ, quân sĩ đang bày binh bố trận, xin Chúa
thượng ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên bảo châu này.`
Xin ngự lãm trong viên bảo châu này một kinh
thành đầy đủ dinh thự kiên cố lầu đài với nhiều cổng thành và trường thành, với
nhiều tụ điểm đầy lạc thú - nơi bốn đại lộ giao nhau - Các đại trụ, hào lũy, chấn
song, then cửa, tháp canh, cổng thành; xin ngự lãm mọi vật xuất hiện trong viên
bảo châu này.
Xin ngự lãm các đàn chim muông đủ loại, trên
đường sá, dưới cổng thành: thiên nga, công, hạc, hồng nga, hải âu, sơn ca, cu
cườm, jivajivaka, xin ngự lãm muôn loài chim đều tụ họp về đây và xuất hiện
trong viên bảo châu này.
Xin ngự lãm một kinh thành diệu kỳ với trường
thành cao cả, khiến ta phải dựng tóc gáy vì kinh ngạc, thật vui mắt vì cờ xí rợp
trời, đất cát toàn vàng ròng, xin ngự lãm các lều ẩn sĩ được phân chia đều đặn
thành từng khu vực, nhà cửa đủ loại, sân bãi, đường sá cùng các đường nhỏ chen
kẽ.
Xin ngự lãm các trà đình tửu quán, các nhà tể
sinh, cùng các tiệm thực phẩm cho các nội nhân, các gái giang hồ cùng các chàng
phóng đãng, tất cả đều hiện ra trong bảo ngọc này. Những người kết tràng hoa,
thợ giặt, các chiêm tinh gia, những lái buôn y phục, thợ kim hoàn nữ trang, tất
cả đều hiện ra trong bảo châu này.
Xin ngự lãm các loại trống, lớn nhỏ, tù và,
trống đồng, trống rung, đủ loại thanh la, đều xuất hiện trong bảo châu này.
Xin ngự lãm các loại vĩ cầm, khiêu vũ, ca
hát thật du dương, các loại nhạc cụ, tiếng gồng chiêng rung đều xuất hiện trong
bảo châu này.
Các tay đô vật, nhảy cao cũng có mặt nơi
đây, cảnh hề múa rối, các thi sĩ, thợ hớt tóc của vua chúa tất cả đều xuất hiện
trong bảo châu này.
Dân chúng tụ tập nơi đây, xin ngự lãm các
dãy ghế sân khấu hàng hàng lớp lớp xuất hiện trong bảo ngọc này.
Xin ngự lãm các tay đô vật đánh bằng hai
cánh tay gập lại, xin ngự lãm kẻ đánh cùng người bị đánh vật đều xuất hiện
trong bảo châu này.
Xin ngự lãm trên triền núi các đoàn hươu,
nai, sư tử, cọp beo, gấu, chó sói, hoẵng, tê giác (tây ngu), gayal, trâu bò, hồng
lộc, ruru, linh dương, lợn rừng, nimka, lợn nhà, hươu sao kadali, mèo, thỏ,
muôn loài súc sinh đều hiện ra trong bảo ngọc này.
Những dòng sông đào thật đẹp, đáy lót toàn
kim sa, nước trong vắt chảy nhẹ nhàng với đủ loại cá, cá sấu, các loài thủy
quái, rùa, trạnh, pàthìna, pàvusa, vàlaja và muñjarohita.
Xin ngự lãm trong viên bảo châu này đủ loại
cây, đủ loài chim và một khu rừng có những cành cây làm bằng ngọc bích (lapi
lazuli).
Xin Chúa thượng ngự lãm các hồ nước được xây
thật đều đặn bốn góc thành với muôn loại chim cá rộn rã tung tăng. Xin ngự lãm
quả đất được biển cả vây phủ, nước tràn khắp nơi, điểm tô đủ loại cây cỏ, tất cả
đều hiện ra trong bảo ngọc này.
Xin ngự lãm xứ Videha phía trước, Goyàniya
phía sau, Kuru (Câu-lâu) và Jambudìpa (Diêm-phù-đề), đều xuất hiện trong bảo ngọc
này.
Xin ngự lãm mặt trời, mặt trăng, chiếu sáng
bốn phương trong khi đi vòng quanh núi Sineru (Tu-di) cũng xuất hiện trong bảo
ngọc này.
Xin ngự lãm núi Sineru và Tuyết Sơn cùng Thần
Hải và Tứ Ðại Thiên vương bảo hộ thế giới, thảy đều xuất hiện trong bảo ngọc
này.
Các hoa viên của Thiên chủ Indra như
Phàrusaka, Cittalatà, Missaka, Nandana và cung Vejayanta, thảy đều xuất hiện
trong bảo ngọc này.
Cung Sudhamma (Thiện pháp) của Thiên chủ
Indra ở cõi trời Ba mươi ba, cây trời Pàricchatta (San hô) đang nở rộ hoa,
thiên tượng Eràvana, đều xuất hiện trong bảo châu này.
Xin ngự lãm các ngọc nữ của các vị trời đang
hiện ra như tia chớp giữa không gian, nhởn nhơ trong ngự viên Nandana, tất cả đều
xuất hiện trong bảo châu này.
Xin ngự lãm các ngọc nữ cõi trời đang mê hoặc
các tiên đồng, và các tiên đồng đang thơ thẩn dạo chơi, tất cả đều xuất hiện
trong bảo châu này.
Xin ngự lãm hơn ngàn cung điện phủ đầy ngọc
bích hiện ra sáng ngời trong viên bảo châu này. Thiên chúng ở các cõi trời Ba
mươi ba, Dạ-ma, Ðâu-suất và Tha hóa tự tại thảy đều xuất hiện trong viên bảo
châu này. Xin ngự lãm các hồ nước trong suốt đầy san hô và sen súng trên cõi trời.
Trong bảo ngọc này có mười đường vân trắng,
mười đường vân xanh đậm thật tuyệt trần, hai mươi mốt đường vân nâu và mười bốn
đường vân vàng nhạt, hai mươi đường vân vàng chói, hai mươi đường vân bạc, ba
mươi đường vân đỏ. Mười sáu đường vân đen, hai mươi lăm đường vân màu thiên thảo
đỏ sẫm chen lẫn với hoa bandhuka và tô điểm thêm những đóa sen xanh.
Tâu Chúa thượng, xin ngự lãm viên ngọc sáng
rực như lửa này với vẻ đẹp toàn mỹ, đó sẽ là giải thưởng dành cho kẻ thắng cuộc.
IV. GIẢI THƯỞNG CỦA CUỘC CHƠI BÀI
Sau khi nói xong, Punnaka liền hỏi:
- Tâu Ðại vương, ví thử tiểu thần thua cuộc,
tiểu thần xin dâng viên bảo ngọc này, song ví thử tiểu thần thắng cuộc, xin
Chúa thượng ban vật gì cho tiểu thần?
- Ngoài thân ta cùng chiếc lọng trắng ra, tất
cả giang sơn ta ngự trị đều đem ra treo giải được cả.
- Tâu Chúa thượng, xin Chúa thượng đừng chậm
trễ nữa, vì tiểu thần từ phương xa lại đây, xin Chúa thượng ra lệnh chuẩn bị
phòng đánh bài.
Thế là vua ra lệnh cho các đại thần chuẩn bị
phòng đánh bài và trải tấm thảm dệt đẹp nhất cho vua ngự, cùng bảo tọa cho các
vị quốc vương khác. Khi đã sắp đặt một chỗ thích hợp cho Punnaka, họ trình vua
đã đến lúc chơi bài.
Punnaka liền tâu vua qua bài kệ sau:
27. Ðại vương, hãy đến đích cầu mong,
Ngài sẽ không giành được bảo trân,
Ta hãy thắng không nhờ bạo lực,
Và ta thắng bởi lẽ công bằng,
Khi ngài thất bại, xin đem trả,
Phần thưởng ngài ban tặng tiểu thần.
Vua liền đáp:
- Hỡi thiếu sinh, chàng đừng sợ ta là một vị
đại vương, mọi cuộc thắng bại của ta đều theo lẽ công bình và không dùng bạo lực.
Thế rồi Punnaka ngâm kệ thỉnh cầu các vị vua
kia chứng kiến cuộc thắng trận bằng lẽ công bình:
28. Hỡi các Ðại vương Pañ-ca-la,
Su-ra-se-na và Mac-cha,
Mad-da cùng với Ke-ka-ka,
Xin các Ðại vương ngắm cuộc cờ,
Không có dối gian hay phỉnh gạt,
Không ai can thiệp việc đôi ta.
Sau đó vua được cả trăm vị vua khác hộ tống
cùng Punnaka vào phòng đánh bài, tất cả đều ngồi xuống các bảo tọa, đặt con súc
sắc vàng lên tấm bảng bằng bạc. Punnaka vội tâu:
- Tâu Ðại vương, có hai mươi bốn lần ném súc
sắc, gọi là màlika, sàvata, bahula, santi và bhadra v.v... xin Ðại vương chọn
con bài nào vừa ý.
Vua ưng thuận, rồi chọn con bài bahula,
Punnaka chọn con bài sàvata. Rồi vua bảo:
- Này thiếu sinh, chàng đánh bài trước đi.
- Tâu Ðại vương, lần ném đầu tiên không phải
của tiểu thần, xin Ðại vương đi trước.
Vua chấp thuận. Lúc bấy giờ mẫu thân của vua
trong đời sống ngay trước đời này là thần hộ vệ của ngài, nên nhờ thần lực của
bà, ngài thắng cuộc. Bà đứng cạnh đó, vua vừa nhớ lại nữ thần vừa ca bài đánh
súc sắc, rồi xoay con bài trong tay và ném lên không. Nhờ thần lực của Punnaka,
các con bài rơi xuống đúng cho chàng thắng vua.
Phần vua với tài chơi súc sắc nhận ra rằng
các con bài rơi xuống không hợp ý ngài, nên ngài chụp chúng lại, trộn đều chúng
trên không rồi ném lên lần nữa, nhưng ngài vẫn thấy chúng rơi xuống không đúng
ý ngài nên vội chụp chúng lại trong lúc đang rơi.
Lúc ấy Punnaka nghĩ thầm: "Vị vua này
đang chơi bài với một thần Dạ-xoa như ta, vừa trộn bài khi chúng rơi xuống rồi
lại chụp lấy chúng, tại sao như vậy chứ"? Khi biết có thần lực của nữ thần
hộ vệ ngài, chàng giương to mắt như thể tức giận lắm và nhìn nữ thần khiến bà
kinh hoàng chạy đi trốn trên đỉnh núi Cakkavàla mà vẫn còn run rẩy.
Khi ném bài đến lần thứ ba, mặc dù vua biết
chúng rơi xuống không đúng ý, ngài cũng không thể đưa tay ra chụp lấy chúng vì
thần lực của Punnaka, nên chúng rơi xuống thất lợi cho ngài. Rồi Punnaka ném
các con bài rơi xuống thắng thế cho chàng. Khi biết rằng chàng đã thắng, chàng
vỗ tay ầm ĩ và nói ba lần:
- Tiểu thần đã thắng!
Tiếng chàng vang dội rung động cả cõi
Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).
Bậc Ðạo Sư tả lại sự việc như sau:
- Vua Câu-lâu và thần Dạ-xoa Punnaka say sưa
bước vào mê hồn trận; vua chơi bài thua cuộc và Punnaka thắng cuộc. Cả hai vị
giao đấu trước sự chứng kiến của các vị vua và nhiều chứng nhân khác. Thần Dạ-xoa
thắng vị vua tối cao của loài người và tiếng reo hò vang dội từ nơi ấy.
Vua không đẹp ý vì thua cuộc, và Punnaka vội
ngâm kệ an ủi ngài:
29. Thắng, bại thuộc về một phía thôi,
Giữa hai phe chiến đấu tranh tài,
Ðại vương đã mất phần ưu thắng,
Chiến bại, xin trao giải thưởng tôi.
Sau đó vua bảo chàng nhận giải qua vần kệ:
30. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
Bất cứ gì ta có ở đời,
Hãy lấy món nào cao quý nhất,
Kac-cà-na, nhận rồi đi thôi.
Punnaka đáp:
31. Ngựa, voi, bò, ngọc quý, hoa tai,
Bất cứ gì ngài có ở đời,
Vi-dhu-ra đại thần ưu thắng,
Người đã được tôi chiếm đoạt rồi!
Vua phán bảo:
32. Vị đại thần ta, chỗ trú an,
Là người giúp đỡ, chốn nương thân,
Chính là thành lũy, thần phù hộ,
Vị đại thần không thể sánh bằng,
Giá trị bạc vàng, tài sản quý,
Người như sinh mạng của vương quân.
Punnaka đáp:
33. Chúng ta tranh chấp sẽ dài dòng,
Ta hãy đi tìm vị đại thần,
Hỏi vị ấy điều gì ước muốn,
Ðể người quyết định vấn đề chung,
Những gì người định phần tiên quyết,
Là bản án phân xử cuối cùng.
Vua phán:
34. Công tử, chàng ăn nói chánh chân,
Quả chàng chẳng nói thiếu công bằng,
Chúng ta đi gặp người và hỏi,
Theo cách này, ta sẽ đẹp lòng.
Nói xong vua đưa cả trăm vị vua kia cùng đi,
Punnaka sung sướng vội vàng đến tòa án và bậc Trí nhân từ chỗ ngồi đứng dậy
chào đón vua rồi ngồi xuống một bên.
Sau đó Punnaka nói với bậc Ðại Sĩ:
- Thưa bậc Trí giả, ngài thật chí công, ngài
không hề nói lời hư vọng dù có đổi cả sinh mạng đi nữa, đó là danh tiếng ngài lẫy
lừng khắp thế giới này. Hôm nay tiểu sinh sẽ biết được ngài có thật chí công
như vậy chăng?
Rồi chàng ngâm kệ sau:
35. Thật chư Thiên phái xuống phàm trần,
Ðến xứ Câu-lâu làm đại thần,
Cố vấn Vi-dhu-ra chánh trực,
Ngài là quyến thuộc hoặc tùy tùng,
Của vương gia đấy, xin ngài nói,
Giá trị của ngài giữa thế nhân?
Bậc Ðại Sĩ nghĩ thầm: "Người này hỏi về
ta, nhưng ta không thể cho người ấy biết được ta là quyến thuộc của vua hay là
thượng nhân đối với vua, hay chẳng có giá trị gì đối với vua cả. Trên thế gian
này không có gì bảo đảm cho ta bằng sự thật, ta phải nói lên sự thật.”
Rồi ngài ngâm hai vần kệ chứng tỏ ngài không
phải là quyến thuộc hay thượng nhân của vua, mà chỉ là một trong bốn loại tùy
tùng của vua:
36. Một số nô tài thuở mẹ sinh,
Kẻ vì tiền phải bán thân mình,
Nhiều người tự nguyện làm nô lệ,
Kẻ khác nô tài bởi hãi kinh.
Ðây bốn loại nô tài tất cả,
Ở trên trần thế giữa nhân sinh.
37. Ta chính nô tài tự mẹ cha,
Khổ ưu phát xuất tự vương gia,
Ta là nô lệ đức vua đó,
Cho dẫu ta theo kẻ khác mà.
Ngài có quyền đem ta tặng cậu,
Hỡi chàng nam tử tự phương xa!
Punnaka nghe lời này vô cùng thích thú, vừa
vỗ tay vừa nói:
38. Hôm nay tôi chiến thắng lần hai,
Ðược hỏi, đại thần đã đáp ngài,
Thật vậy, Ðại vương không đúng lý,
Việc này đã quyết định xong xuôi,
Nhưng ngài không muốn đem trao trả,
Phần thưởng ngài dành để tặng tôi!
Nghe vậy, vua liền nổi giận với bậc Ðại Sĩ
và bảo:
- Ngươi chẳng hề quan tâm đến ta là người đã
ban vinh quang cho ngươi, lại quan tâm đến chàng thiếu sinh này hợp nhãn ngươi
mà thôi.
Rồi quay về phía Punnaka, vua nói:
- Nếu gã kia là một nô tài thì hãy đem gã và
đi ngay.
Vua lại ngâm kệ sau:
39. Nói gã trả lời câu hỏi ta:
"Ta là nô lệ của vương gia,
Chứ không quyến thuộc", thì chàng nhận,
Bảo vật tối ưu này của ta,
Kac-cà-na, nhận ngay, chàng hỡi,
Rồi hãy đi đâu hợp ý mà.
Nhưng khi nói vậy, ngài suy nghĩ: "Thiếu
sinh này sẽ đem Ðại trí nhân đi đâu tùy ý, sau khi vị ấy đi rồi, ta tìm đâu ra
được một buổi đàm đạo lý thú về các thánh sự, vậy sao ta lại không thử thỉnh cầu
vị ấy lên bảo tọa ngồi rồi ta hỏi vài câu liên quan đến cuộc sống cư sĩ tại
gia"? Thế là vua bảo:
- Thưa bậc Trí giả, khi ngài đi rồi, trẫm sẽ
khó tìm đâu ra được một buổi đàm đạo thú vị về các thánh sự. Vậy xin ngài ngồi
xuống bảo tọa đã được trang hoàng uy nghi đúng theo cương vị của ngài và giải
thích cho trẫm một vấn đề liên quan đến cuộc sống cư sĩ tại gia có được chăng?
Bậc Ðại Sĩ liền ưng thuận, và sau khi ngồi
xuống bảo tọa được trang hoàng uy nghi, ngài giải thích vấn đề vua hỏi, đó là vấn
đề:
- Thưa bậc Trí giả Vidhura, làm thế nào có
được cuộc sống hưng thịnh cho một cư sĩ tại gia? Làm thế nào có được lòng ưu ái
của đồng loại mình? Làm thế nào thoát được đau khổ? Và làm thế nào chàng niên
thiếu nói điều chân thật thoát được mọi ưu não khi qua đến đời sau?
Lúc ấy Vidhura đầy đủ đại trí và minh sát,
là bậc thấy mục đích chân lý và đang vững tâm tiến lên, bậc thông thạo mọi pháp
lành liền nói những lời này:
- Ðừng chung chạ vợ người, đừng hưởng cao
lương mỹ vị một mình, đừng nói chuyện phù phiếm, vì việc này không tăng trưởng
trí tuệ. Phải đức độ, tận tụy với nhiệm vụ mình, không phóng dật, sáng suốt,
khiêm tốn, không nhẫn tâm, đầy từ bi, thân ái, hòa nhã, khéo léo chinh phục bạn
lành, sẵn sàng phân phát bố thí, thận trọng sắp xếp công việc tùy theo mùa,
luôn luôn sẵn sàng cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ vật thực. Phải mong
cầu công chính và làm cột trụ hộ trì Chánh pháp, sẵn sàng học hỏi và cung kính
theo hầu các bậc đa văn đầy đức độ. Như vậy sẽ là cuộc sống hưng thịnh cho một
cư sĩ tại gia, như vậy là sẽ chiếm được lòng ưu ái của đồng loại mình, như vậy
là sẽ thoát khổ; và như vậy là chàng trẻ tuổi nói điều chân thật sẽ thoát khỏi
sầu bi khi sang đến đời sau.
Như vậy sau khi giải đáp câu hỏi liên quan
cuộc sống cư sĩ, bậc Ðại Sĩ bước xuống từ bảo tọa và vái chào vua. Phần vua
cũng đáp lễ ngài vô cùng cung kính, rồi đi cùng với cả trăm vị vua khác, đến viếng
tư thất của ngài .
Khi bậc Ðại Sĩ trở lại, Punnaka nói:
- Xin ngài đến đây, ta cùng khởi hành, đức
vua đã trao ngài cho tiểu sinh; vậy phải theo đúng nhiệm vụ đó. Ấy là qui luật
từ ngàn đời.
Bậc Trí giả Vidhura đáp lại:
- Hỡi thiếu sinh, ta biết lắm, chàng đã chiếm
được ta, đức vua đã giao ta cho chàng, ta xin mời chàng về nghỉ ngơi tại nhà ta
ba ngày nữa để ta dặn dò các con ta.
Punnaka nghe vậy nghĩ thầm: "Bậc Trí giả
này đã nói chân thật, đó là một đại phúc cho ta, ví thử ngài có mời ta ở lại bảy
ngày hay nửa tháng, ta cũng nên nhận lời ngay lập tức." Thế là chàng đáp:
- Chuyện này cũng thuận lợi cho tiểu sinh, vậy
ta cùng ở lại đó ba ngày, thưa bậc Trí giả, nếu có việc gì cần giải quyết trong
gia đình của bậc Trí giả, xin chỉ dạy cho quý phu nhân và các công tử, hầu mong
các vị được hạnh phúc sau khi ngài đi rồi.
Nới xong Punnaka cùng bậc Ðại Sĩ đi về tư thất
ngài.
Bậc Ðạo Sư tả sự việc ấy như sau:
Lòng đầy hoan hỷ và háo hức khát khao, chàng Dạ-xoa đi cùng
bậc Trí giả Vidhura, vị đệ nhất hiền giả, đưa chàng vào nội thất với đoàn bảo
tượng và tuấn mã theo hầu.
Lúc bấy giờ bậc Ðại Sĩ có ba cung thất dành
cho ba mùa, cung đầu tiên là Koñca, cung thứ hai là Mayùra, cung thứ ba là
Piyaketa. Bài kệ sau đây nói về ba cung ấy:
40. Chàng đã đến nơi chốn đại gia:
Koñca, Mayùra, Piyaketa,
Mỗi nơi một cảnh đầy hoan lạc,
Phong phú thức ăn uống cả nhà,
Trông giống thiên cung trên thượng giới,
Của Ind-ra, đại đế Sak-ka.
Sau khi ngài đến nơi, ngài ra lệnh dọn một
phòng ngủ và một chiếc bệ cao trên tầng thứ bảy của cung thất trang hoàng tráng
lệ, trải vương sàng và bày biện đủ cao lương mỹ vị xong, ngài chỉ cho chàng năm
trăm mỹ nữ như tiên trên trời, và bảo:
- Ðây là những tỳ nữ của chàng, chàng cứ ở lại
đây đừng lo ngại gì cả.
Rồi ngài trở về tư thất. Khi ngài đi rồi,
các mỹ nữ đem nhạc khí đủ loại ra ca múa tưng bừng trong lúc hầu hạ chàng
Punnaka.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Các mỹ nữ điểm trang diễm lệ như các Thiên
thần, ca múa trò chuyện cùng chàng, mỗi nàng đều gắng sức đem hết mọi tài năng
ra biểu diễn.
Bậc hộ trì Chánh pháp ấy, sau khi cho chàng
hưởng cao lương mỹ vị cùng nữ sắc, liền nghĩ đến việc cao quý bậc nhất, là mang
chàng vào giới thiệu cùng phu nhân.
Ngài bảo phu nhân đã được trang điểm bằng
hương chiên-đàn cùng nhiều hương thơm khác đang đứng như một thanh bội hoàn bằng
vàng ròng:
- Này phu nhân nghe đây, hãy gọi các nam tử
đến ngay, hỡi phu nhân có đôi mắt đẹp màu hổ hoàng.
Anujjà nghe phu quân gọi liền bảo con dâu, một
mỹ nhân có đôi mắt tuyệt trần, móng tay sáng rực như đồng:
- Này Cetà, nàng đeo vòng vàng lục lạc chẳng
khác nào bào giáp, nàng là đóa súng xanh mơn mởn, hãy đi gọi các con ta lại
đây.
Nàng ấy vâng dạ xong đi suốt cả cung thất, tập
hợp các thân hữu cùng các công tử, công nương, lại bảo họ:
- Thân phụ quý vị muốn dặn dò quý vị đôi điều,
đây là lần cuối cùng quý vị gặp được ngài đấy.
Công tử Dhammapàla-Kumàra nghe vậy liền
khóc, vội đi đến gặp thân phụ cùng các công tử em chàng. Khi vị cha thấy các
con đến, không thể nào giữ được vẻ bình thản, liền ôm các con mắt đầy lệ, hôn đầu
các con và ghì lấy trưởng nam vào lòng một hồi lâu. Rồi ngài nhấc con lên, bước
ra khỏi cung thất, ngồi xuống tọa sàng đặt trên chiếc bệ cao, ngài nhắn nhủ với
cả ngàn công tử kia.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Bậc hộ trì Chánh pháp, lòng không chút sợ
hãi, hôn trán các con khi họ đến gần ngài, và sau khi chào hỏi xong, ngài bảo họ:
- Ta được đức vua giao cho chàng thiếu sinh
này. Ta thuộc quyền sở hữu của chàng rồi, nhưng hôm nay ta còn được tự do tìm
thú vui riêng cho mình, rồi chàng sẽ đem ta đi đâu tùy ý, cho nên ta muốn nhắn
nhủ các con đôi điều, vì làm sao ta ra đi mà không tìm cách cứu khổ các con được?
Ví như Janasandha, vua xứ Câu Lâu, trịnh trọng hỏi các con: "Các khanh xem
cái gì thật cổ kính ngay trong thời thượng cổ? Thân phụ các khanh dạy bảo điều
gì tiên khởi và tối thượng"? Rồi ví như nhà vua bảo: "Các khanh đồng
đẳng với ta, ai trong các khanh lại không hơn một vị vua đã chứ"?, các con
sẽ kính cẩn đảnh lễ vua và tâu: "Xin Ðại vương đừng nói vậy, không có luật
lệ nào như thế cả, làm sao một con chó rừng hèn mọn lại đồng đẳng với một vương
hổ được"?
Sau khi nghe thuyết giáo xong, các vị công tử,
công nương, thân bằng, quyến thuộc, gia nhân, dân chúng đều không giữ được lòng
bình thản, đồng khóc lớn khiến bậc Ðại Sĩ lại phải an ủi họ thêm nữa.
V. IDHURA KHUYẾN GIÁO THÂN NHÂN
Rồi sau khi đến với mọi người và thấy họ đã
giữ yên lặng, ngài nói:
- Này các con, đừng buồn khổ làm gì, các sắc
pháp đều vô thường, vinh quang cuối cùng lại gây tai họa; tuy vậy ta sẽ chỉ cho
các con một cách đạt vinh quang, đó là chốn triều đình. Hãy chú ý lắng nghe cho
kỹ.
Sau đó nhờ thần lực của một vị Phật, ngài
đưa họ vào một cảnh triều đình.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Khi ấy Vidhura thuyết Pháp cho tất cả thân bằng
lẫn cừu thù, quyến thuộc cùng thê tử, tâm trí ngài viễn ly mọi sắc pháp:
- Này các vị hãy đến đây nghe cho kỹ trong
khi ta nói về chốn triều đình, làm thế nào một nam tử vào chốn triều đình có thể
đạt vinh quang. Khi vào chốn triều đình còn là vô danh tiểu tốt, y không có thể
có được vinh quang đâu, cũng không thể đạt vinh quang nếu y là một tên hèn
nhát, ngu ngốc hoặc vô tâm. Khi nào vua nhận thấy đức độ của y, tài trí cũng
như lòng thanh liêm của y, vua mới tin tưởng y và không giấu y những điều bí mật
của ngài. Khi nào được lệnh thi hành một việc gì, y không được ngần ngại, như một
chiếc cân thật chính xác, với cán cân thật ngang bằng và như chiếc cân kia, nếu
y sẵn sàng đảm trách mọi gánh nặng, y mới có thể ở chốn triều đình.
Bất kỳ ngày đêm, một trí giả cũng không ngần
ngại gì khi được giao quốc sự; một người như thế mới có thể ở chốn triều đình.
Một bậc trí giả, khi được giao quốc sự, bất kỳ ngày đêm cũng phải đảm nhận mọi
nhiệm vụ. Một người như vậy mới có thể ở chốn triều đình.
Người nào thấy được đạo lộ dành cho vua và
thận trọng sắp xếp mọi việc thuận lợi cho ngài, mà chính mình không dám bước
vào đó, dù được mời làm như vậy, kẻ ấy mới có thể ở chốn triều đình. Ðừng vì một
duyên cớ gì vui hưởng các lạc thú như vua, mà phải theo sau hầu vua trong mọi
việc, một kẻ như thế mới có thể ở trong chốn triều đình.
Ðừng mặc y phục như vua, cũng không mang
tràng hoa, xức dầu thơm như vua dùng, cũng không đeo các đồ trang sức như vua
hay nói giọng như vua được; bao giờ cũng phải tạo một dáng điệu khác, cách phục
sức khác. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.
Nếu vua đang vui đùa cùng các cận thần hay
đang được các cung nữ vây quanh ngài, thì vị cận thần không nên nói bóng gió với
các cung phi ấy. Người nào không dương dương tự đắc cũng không nhẹ dạ chóng đổi
thay, mà phải thận trọng, luôn luôn biết tự chủ, người nào đạt được minh trí và
quyết tâm, người như vậy mới có thể ở chốn cung đình.
Ðừng đùa cợt với các cung phi, cũng không
nói chuyện riêng với họ, đừng lấy của cải trong công khố. Người như vậy mới có
thể ở chốn triều đình. Ðừng nghĩ nhiều đến việc ngủ nghỉ, cũng không ham rượu nồng
quá độ, không giết hươu nai trong vườn ngự uyển, một kẻ như vậy mới ở được chốn
cung đình.
Ðừng ngồi trên vương tọa, long sàng, kim
đôn, vương tượng hoặc vương xa, vì nghĩ mình là kẻ có đặc quyền, một người như
vậy mới có thể ở được chốn cung đình.
Ðứng e dè giữ mình quá xa cách vua, nhưng
cũng đừng quá gần gũi ngài, luôn luôn sẵn sàng túc trực bên ngài, tâu gửi đôi
điều lên đấng chúa công. Ðừng xem vua như một kẻ thường dân, không nên so sánh
vua với bất kỳ một ai khác. Vua chúa rất dễ nổi cơn thịnh nộ, như con mắt dễ bị
đau nếu đụng nhằm râu hạt thóc vậy. Vị hiền trí không nên nghĩ rằng mình đang
được ân sủng, lại cả gan nói năng thô lỗ với vua đa nghi. Nếu vị ấy gặp được vận
may thì cứ chụp lấy, nhưng đừng tin tưởng vào vua chúa, phải luôn luôn biết
phòng thân như đề phòng hỏa hoạn, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.
Nếu vua sủng ái con hay em của ngài rồi ban
cho họ một vài thôn làng, thị thành hay vài triều thần làm tùy tùng của họ, thì
kẻ đó phải biết yên lặng chờ đợi, đừng bảo là vua khôn khéo hay lỗi lầm gì.
Nếu vua tăng lương cho quan quản tượng hay vệ
sĩ của ngài, hoặc pháo binh hay bộ binh của ngài vì nghe được các chiến công của
họ, kẻ ấy đừng nên xen vào cản trở việc trên, một kẻ như vậy mới có thể ở được
chốn triều đình.
Bậc trí giả phải biết giữ bụng bé như cây
cung, nhưng lại biết uốn cong dễ dàng như cây tre; đừng làm phật ý vua, như vậy
mới có thể ở chốn triều đình. Phải biết giữ bụng bé như cây cung, mồm lặng
thinh như loài cá, phải ăn uống chừng mực, can đảm và thận trọng. Một kẻ như vậy
mới có thể ở chốn triều đình.
Ðừng lui tới với nữ nhân quá nhiều, sợ rằng
phải hao mòn sinh lực, kẻ ngu ngốc chính là nạn nhân của bệnh ho hen, đau nhức
mình mẩy và tính trẻ con, đừng cười cợt thái quá, cũng đừng quá lặng lẽ, phải
biết nói năng lúc thời cơ thuận tiện đến, lời nói phải khúc chiết, rõ ràng, được
cân nhắc kỹ lưỡng. Ðừng buông mình theo cơn nóng giận, cũng đừng chực sẵn sàng
gây hận, lời lẽ phải chân thật, dịu dàng, không vọng ngữ và đừng nói năng nhảm
nhí. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.
Phải biết tự rèn luyện, học hỏi, tự chủ, có
kinh nghiệm trong việc giao thương, ôn hòa, dịu dàng, thận trọng, liêm khiết,
khéo léo. Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.
Ðối xử khiêm tốn với người trên, sẵn sàng
nghe lời kẻ khác, đầy lòng kính cẩn, từ ái, sống dễ chịu với người xung quanh.
Một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.
Phải biết lánh xa sứ giả của ngoại bang sai
đến thương thảo, chỉ lưu tâm đến vị chúa tể của mình, đừng biết đến vị vua nào
khác.
Phải biết tôn trọng các Sa-môn, Bà-la-môn đức
độ và đa văn, phải biết cung phụng các vị ấy, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn
triều đình.
Phải biết cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn đức
độ và đa văn đầy đủ vật dụng ăn uống, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều
đình. Phải biết đến gần và thành tâm phụng sự các Sa-môn và Bà-la-môn đức độ,
đa văn, cầu mong đó là việc thiện chân chính của mình.
Ðừng tìm cách tước đoạt của các Sa-môn,
Bà-la-môn những vật được cúng dường cho họ trước kia và đừng tìm cách ngăn cản
các khất sĩ vào lúc chẩn tế. Một kẻ công chính, đầy đủ đại trí, khéo léo sắp xếp
mọi công việc, thông thạo mọi thời cơ, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều
đình.
Một người đầy nghị lực lúc làm việc, thận trọng
khéo léo, có khả năng tiến hành công việc đến thành quả mỹ mãn, người ấy mới có
thể ở được chốn triều đình.
Phải thăm viếng thường xuyên các sân đập
lúa, đàn trâu bò, gia súc, ruộng nương, phải cho cân thóc thật kỹ lưỡng và cất
vào vựa, phải bảo đong lường kỹ mỗi khi nấu nướng trong nhà mình.
Ðừng sử dụng hay đề bạt con hay em trai thiếu
đức độ vững vàng, những con em như vậy không phải là những phần tử chân chính của
giống nòi mình, phải xem chúng như chết rồi. Phải đem y phục, vật thực cấp dưỡng
cho chúng và bảo chúng ngồi im mà nhận lấy. Phải biết dùng ở cửa công những tùy
tướng có đức độ vững vàng, khéo léo làm việc và biết đối phó lúc ngộ biến.
Một kẻ đức độ, vô tham, tận tụy với quân
vương, luôn có mặt bên ngài và mưu cầu quyền lợi cho ngài một kẻ như vậy mới có
thể ở chốn triều đình.
Phải biết rõ ý vua, theo sát tâm tư ngài, đừng
bao giờ hành động trái ý ngài, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn cung đình, phải
xoa dầu thơm và tắm cho ngài, phải cúi đầu xuống khi rửa chân cho ngài; khi bị
trừng phạt không hề tức giận, một kẻ như vậy mới có thể ở chốn triều đình.
Phải biết cúi đầu chào một chiếc bình đầy nước
hay cung kính thi lễ một con quạ, hơn thế nữa, còn phải ban phát đầy đủ cho mọi
kẻ cầu xin, lúc nào cũng phải tỏ ra khôn ngoan và lỗi lạc. Phải biết bố thí, tọa
cụ, y phục, xe pháo, nhà cửa, tư dinh, phải tưới tràn đầy phúc lộc cho mọi người
như một vầng mây lớn. Thưa quý vị, đó là cách để ở được chốn triều đình, đó là
cách cư xử để được ân sủng của vua chúa, để được vinh quang do các ngài ban thưởng.
VI. CUỘC DU HÀNH CỦA VIDHURA VÀ PUNNAKA
Ba ngày trôi qua, bậc Ðại Sĩ thuyết giáo cho
đám vợ con, bạn hữu cùng nhiều người khác đã xong. Khi biết thời hạn đã mãn, từ
tinh sương, sau bữa ăn đầy cao lương mỹ vị, ngài bảo:
- Ta sẽ tạ từ đức vua và ra đi cùng chàng
thiếu niên này.
Rồi ngài đi đến cung vua, cùng với đám quyến
thuộc vây quanh, đảnh lễ vua rồi đứng sang một bên, nhắn nhủ đôi lời khôn
ngoan, thực tiễn.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Sau khi nhắn nhủ thân bằng quyến thuộc xong,
bậc Ðại trí được đám thân hữu vây quanh, cùng đi đến cung vua. Ðảnh lễ dưới
chân vua và chúc tụng vua rất kính cẩn xong, Vidhura chắp tay lại tâu:
- Thiếu sinh này muốn sử dụng thần theo ý
chàng, nên sẽ đem thần đi xa. Thần xin bày tỏ đôi lời vì các thân bằng quyến
thuộc còn ở lại, xin hãy nghe thần tâu, hỡi đấng Ðại vương đã chinh phục bao cừu
thù. Xin Ðại vương chăm sóc đám thê tử và tài sản trong gia tộc tiểu thần, để
khi thần đã đi rồi, thân quyến của thần cũng không bị tàn mạt. Vì khi quả đất
rung chuyển, thì mọi vật trên đó đều rung chuyển theo và khi quả đất vững vàng,
thì mọi vật mới vững vàng được. Vì thế thần thấy quyến thuộc của thần sẽ suy sụp
theo sự suy sụp của thần; thần nhận đó là lỗi của thần vậy.
Vua nghe vậy, liền bảo:
- Này bậc Trí giả, trẫm không muốn khanh ra
đi tý nào cả, vậy đừng đi nữa; trẫm sẽ triệu chàng thiếu sinh ấy đến rồi lấy cớ
giết gã đi và giấu nhẹm câu chuyện.
Ngài phát họa chuyện này qua vần kệ:
41. Này khanh, không thể bước đi ra,
Ðây chính điều cương quyết của ta.
Khi đã giết xong chàng trẻ ấy,
Khanh cần ở lại chốn này mà.
Ðây là thượng sách cho ta đó,
Bậc Ðại trí, xin chớ bỏ ta!
Bậc Ðại Sĩ nghe vậy liền kêu to:
- Ý định như thế quả không xứng chút nào với
Ðại vương.
Rồi ngài nói thêm:
42. Ðừng để tâm vào việc bất công,
Hãy tinh cần luyện tập thân tâm,
Ðúng theo Thánh điển đầy thâm nghĩa;
Ô nhục thay là việc ác gian,
Khi đã làm xong điều tội lỗi,
Con người đọa địa ngục sau cùng.
43. Chuyện này không phải lẽ công bằng,
Ðây chẳng phải là việc đáng làm,
Tâu Chúa công, vua là tối thượng,
Quyền uy với kẻ dưới tồi tàn,
Muốn đem giết nó hay thiêu sống,
Thần giã từ không dám hận sân.
Nói xong Ðại Sĩ kính cẩn vái chào vua rồi
khích lệ các cung phi, quần thần đôi lời, xong bước ra khỏi cung điện, trong
khi họ không còn giữ được lòng can đảm, chịu đựng được nữa, cùng bật tiếng khóc
to và dân chúng trong kinh thành đồng kêu lên:
- Bậc Ðại trí đang ra đi cùng chàng tuổi trẻ,
ta hãy mau mau ra tiễn ngài lên đường.
Họ nhìn theo ngài trong sân chầu, song họ bảo
nhau:
- Ðừng sầu khổ nữa, vạn pháp đều vô thường,
giả tạm, vậy hãy nhiệt tâm bố thí và làm các thiện pháp. Rồi họ trở lại, ai về
nhà nấy.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Sau khi ôm hôn trưởng nam và đè nén nỗi đau
đớn trong lòng, mắt đẫm lệ, bậc Ðại Sĩ bước vào cung thất. Lúc bấy giờ có cả
ngàn công tử, cả ngàn công nương, cả ngàn phu nhân, bảy trăm cung nữ, cùng nhiều
nô tỳ, cận vệ, thân bằng quyến thuộc quỳ xuống khắp nơi, cả cung điện chẳng
khác nào vườn cây sà-la ngả nghiêng trong cơn cuồng phong bão táp báo hiệu giờ
tận thế.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Gia quyến của Trí giả Vidhura nằm phủ phục
khắp cung điện như vườn cây sàla ngã nghiêng tơi tả trong cơn bão táp.
Cả ngàn phu nhân, bảy trăm nữ tỳ dang tay ra
than khóc trong cung của Vidhura. Các hậu phi, vương tử, các Vệ-xá, Bà-la-môn,
đang dang tay ra than khóc trong cung Vidhura. Các quan quản tượng, vệ sĩ, quản
xa, bộ binh, đều dang tay than khóc trong cung của Vidhura. Thần dân khắp chốn
thành thị, thôn quê tụ tập lại đồng dang tay than khóc trong cung của Vidhura.
Sau khi an ủi quần chúng và hoàn tất mọi việc
còn sót lại, bậc Ðại Sĩ khích lệ các hậu phi và chỉ bảo cho họ những gì cần chỉ
bảo, ngài đến gặp Punnaka cho chàng hay rằng ngài đã làm xong mọi việc cần làm.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Sau khi hoàn tất mọi việc cần thiết trong
cung thất và chỉ bảo thân bằng quyến thuộc thê nhi, quân sư xong, sau khi sắp đặt
mọi công việc bên ngoài cần lưu tâm và thông báo mọi kho vựa trong nhà, kho gia
bảo cùng nợ nần phải trả, ngài nói với Punnaka:
- Chàng đã ở lại trong cung ta ba ngày rồi,
ta đã làm xong mọi việc cần thiết, chỉ dạy vợ con xong xuôi, giờ đây ta hãy làm
theo ý chàng, hỡi chàng Ca-chiên-diên.
Punnaka đáp lại:
- Nếu ngài đã hành động theo ý ngài, đã chỉ
bảo vợ con, tùy tướng xong rồi, thì than ôi, giờ đây ngài đứng đó như người sắp
vượt biển, cả một cuộc hành trình dài trước mắt ngài. Vậy đừng sợ hãi gì, hãy nắm
lấy đuôi tuấn mã cao sang của ta và đây là lần cuối ngài thấy cảnh nhân gian.
Bậc Ðại Sĩ liền đáp lại:
- Ta còn phải sợ ai chứ, khi ta không hề làm
ác đối với ai từ thân, ngữ, ý, thì làm sao ta gặp tai họa được?
Thế là bậc Ðại Sĩ can đảm như con sư tử kiêu
hùng, lớn tiếng bảo:
- Ðây là cẩm bào của ta, đừng cởi nó ra nếu
ta không cho phép.
Rồi với quyết tâm cao độ, ngài thắt đai áo
thật chặt, gỡ đuôi ngựa ra, hai tay nắm chặt lấy, thúc đôi chân vào hông ngựa
và bảo chàng:
- Ta đã nắm đuôi ngựa rồi, này thiếu niên,
thôi hãy đi đâu tùy ý chàng.
Lúc ấy Punnaka ra lệnh cho con ngựa có đủ
trí khôn kia, nó liền nhảy vọt lên bầu trời mang theo bậc Trí giả.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Ngựa chúa mang Vidhura lên bầu trời, chẳng
bao lâu đến ngọn Hắc Sơn mà chẳng đụng vào cây cối núi non chập chùng.
Trong khi Punnaka đem bậc Ðại Sĩ đi như vậy,
các con ngài cùng nhiều người đến chứng kiến đi vào cung thất của ngài. Khi họ
không thấy bậc Ðại Sĩ đâu cả, họ liền khóc lóc thảm thiết và ngã sóng sượt như
thể chân cẳng họ đã đứt lìa.
Rồi khi họ thấy và nghe bậc Ðại Sĩ đang lúc
ngài bay lên trời mà chẳng rõ duyên cớ gì, họ lại than khóc đi thẳng vào hoàng
môn, với đám dân chúng theo sau. Vua nghe tiếng than khóc rền rỉ liền mở cửa sổ
ra hỏi tại sao họ than khóc như vậy. Họ trình:
- Tâu Ðại vương, đó chẳng phải là chàng
Bà-la-môn nào cả, mà chính thần Dạ-xoa giả dạng Bà-la-môn mang bậc Trí giả đi mất
rồi. Không có ngài, chúng thần không thiết sống nữa; nếu ngài không trở về
trong vòng bảy ngày nữa, chúng thần sẽ chất gỗ hàng trăm hàng ngàn xe và tự
thiêu cả cho rồi.
Vua nghe vậy liền đáp:
- Bậc Ðại trí giả có giọng nói êm dịu sẽ
thuyết phục chàng trai kia bằng giáo pháp của ngài và sẽ khiến chàng quy phục
dưới nhân ngài, chẳng mấy chốc ngài sẽ trở về mang lại nụ cười cho bộ mặt sầu
thảm của các khanh. Thôi đừng buồn rầu nữa.
Rồi ngài ngâm kệ:
44. Thật đại hiền là bậc Trí nhân,
Uyên thâm và đủ mọi tài năng;
Không lâu ngài tự tìm đường thoát,
Ngài sẽ trở lui, chớ hãi hùng.
Trong khi đó Punnaka, sau khi đã đem bậc Ðại
Sĩ lên đỉnh Hắc Sơn, liền nghĩ thầm: "Người này còn sống thì ta không vinh
hiển được, vậy ta sẽ giết y lấy quả tim đem về xứ Long vương dâng cho vương hậu
Vimalà và sau khi chiếm được công chúa Irandatì, ta sẽ lên Thiên giới .”
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Khi đã đến nơi, chàng nghĩ thầm: "Loài
có trí hiện hữu trong nhiều đẳng cấp. Người này sống, ta chẳng ích gì, vậy ta
hãy giết y và lấy con tim.”
Rồi chàng lại nghĩ: "Nếu chẳng cần giết
y bằng chính tay ta, sao ta lại chẳng làm y chết đi vì kinh sợ bằng cách hiện
ra hình thù khủng khiếp.” Thế là sau khi hiện hình ác quỷ, chàng đến gần nắm ngài xuống đất, ngoạm
ngài trong miệng như thể sắp nuốt sống ngài, nhưng bậc Ðại Sĩ chẳng hề dựng sợi
tóc nào. Chàng lại hiện hình sư tử và voi hung, lấy răng và ngà dọa tấn công
ngài. Khi ngài chẳng tỏ ra khiếp sợ, chàng liền hiện hình đại mãng xà, to như
chiếc thuyền lớn, hình máng xối, đến gần ngài rít lên, cuộn thân quanh ngài, phủ
đầu ngài bằng chiếc mào, ngài vẫn chẳng tỏ chút gì sợ hãi. Rồi chàng bảo:
- Nếu y đứng trên đỉnh núi và rơi xuống ta sẽ
làm y tan vụn ra từng mảnh.
Thế là chàng nổi trận cuồng phong, nhưng nó
cũng chẳng lay động được đầu sợi tóc nào của ngài cả. Rồi chàng để ngài trên đỉnh
núi, hiện hình con voi làm rung chuyển ngọn núi ngả nghiêng như thể cây chà là
rừng. Nhưng dù vậy, chàng cũng không thể làm lay động được đầu sợi tóc nào của
ngài cả. Sau đó chàng bảo:
- Ta sẽ làm tim y vỡ ra vì khiếp đảm khi
nghe một tiếng gầm kinh khủng.
Rồi chàng đi vào trong núi, rống lên một tiếng
gầm khủng khiếp rền vang cả đất trời nhưng bậc Ðại Sĩ cũng chẳng tỏ ra khiếp sợ,
vì ngài biết rằng dù chàng hiện hình Dạ-xoa, sư tử, voi hay Long vương, có làm
mưa gió rung chuyển núi rừng hay vào trong núi gầm thét vang dội đi nữa, chàng
cũng chỉ là một phàm phu, không là gì khác.
Chàng Dạ-xoa liền nghĩ thầm: "Ta không
thể nào giết y bằng cách tấn công bên ngoài, vậy ta chỉ còn cách giết y bằng
chính tay ta.” Thế là chàng đặt bậc Ðại Sĩ lên trên đỉnh núi, còn chính chàng
xuống chân núi đi lên từ lòng núi, như thể chàng xuyên sợi chỉ trắng qua hạt ngọc
có xoi lỗ, với tiếng gầm lớn, chàng thô bạo chụp bậc Ðại Sĩ tung lên xoay tít,
dựng đầu ngài xuống phía dưới trong khoảng không chẳng có vật gì để ngài có thể
nắm lấy được.
Cảnh ấy được miêu tả như sau:
Sau khi đến đó và vào trong núi, Kàtiyàna với
tâm địa ác độc nắm lấy đầu dốc ngài ngược xuống khoảng không gian bao la. Trong
khi ngài lơ lửng như ở trên bờ địa ngục, cảnh tượng thật kinh hoàng, vô cùng
nguy hiểm, khó vượt qua, bậc Hiền trí đệ nhất của toàn dân Câu-lâu vẫn không
nao núng bảo chàng:
- Bản chất ngươi thật hèn hạ, mặc dù có lúc
ngươi đã mang một hình tướng thật cao sang; ngươi phóng dật tột cùng mặc dù
mang hình hài một vị khổ hạnh tự chế, ngươi đang phạm một việc ác độc và kỳ
quái, không có gì tốt đẹp trong bản chất của ngươi cả. Tại sao ngươi lại giết
ta, khi ngươi muốn thấy ta rơi xuống vực thẳm này? Tướng mạo ngươi có vẻ siêu
phàm, hãy cho ta biết ngươi là loại thiên thần gì?
Punnaka đáp lại:
- Có lẽ ngài đã nghe danh thần Dạ-xoa
Punnaka, là đại thần của vua Kuvera. Có một Long vương cai trị địa giới tên gọi
Varuna, thật oai hùng, liêm khiết, có đầy đủ phong thái tốt đẹp cùng dũng lực.
Ta mơ ước công chúa, con của ngài, một Long nữ tên gọi Irandatì, vì yêu nương tử
diễm kiều ấy nên ta đã quyết tâm sát hại ngài đấy, thưa bậc Trí giả.
Bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: "Thế giới này sụp
đổ chỉ vì một việc hiểu lầm, tại sao một kẻ si tình Long nữ lại muốn giết ta?
Ta phải biết tất cả sự thật của câu chuyện này mới được.” Rồi ngài ngâm kệ:
45. Này chớ bị lừa, hỡi Dạ-xoa,
Nhiều người bị hại bởi lầm to,
Việc chàng yêu quý nàng Long nữ,
Nào có liên quan việc giết ta?
Này hãy mau lên, thần đại lực,
Kể ta nghe mọi chuyện kia mà.
Punnaka liền đáp ngài:
46. Vì yêu ái nữ đại Long vương,
Ta hội ý thân tộc của nàng,
Và lúc ta cầu hôn thiếu nữ,
Nhạc gia đã nói với ta rằng
Các ngài hiểu mối tình say đắm:
"Ta sẽ ban chàng vị quý nương
Hình dáng yêu kiều, mắt diễm lệ
Nụ cười tươi đẹp ngát trầm hương .
47. Nếu chàng đem sính lễ vương gia,
Tim của Trí nhân Vi-dhu-ra,
Chiếm được nhờ công bằng thắng trận,
Công nương được gả giá này mà,
Chúng ta không nhận quà gì khác.”
Như vậy ta đâu bị đánh lừa?
Hỡi bậc chánh chân nghe thật kỹ,
Không gì lầm lẫn về phần ta.
48. Long vương sẽ gả vị công nương,
Ðổi trái tim nhờ thắng chánh chân,
Chính bởi điều này ta đã quyết,
Giết ngài theo cách chúng ta cần,
Nếu ta ném xác ngài trong vực
Ta sẽ giết ngài, lấy quả tâm!
Khi bậc Ðại Sĩ nghe vậy, ngài suy nghĩ:
"Vương hậu Vimàla không cần trái tim của
ta đâu. Vua Varuna sau khi nghe Pháp thoại, đã tán thán ta và ban ta châu báu;
có lẽ khi ngài về cung đã tả lại năng lực thuyết Pháp của ta nên Vimalà cũng
mong muốn nghe ta thuyết giảng. Punnaka có lẽ đã nhận được lệnh của Varuna qua
một sự hiểu lầm và chàng ta cũng chịu tác động của sự lầm tưởng riêng nên mới
gây ra tai họa này. Vậy nay đặc tính của một bậc trí như ta là có khả năng đưa
ra ánh sáng và khám phá mọi chân lý. Nếu Punnaka giết ta thì có ích gì? Nay ta
sẽ bảo chàng: "Này thiếu sinh, ta biết Chánh pháp mà thiện nhân phải tuân
theo, vậy trước khi ta chết, hãy đặt ta trên đỉnh núi và nghe ta nói Pháp lành
của thiện nhân, sau đó chàng muốn làm gì tùy ý", rồi sau khi thuyết Pháp
thiện nhân cho chàng, ta hãy để chàng giết đi.”
Thế là ngài ngâm kệ trong khi lơ lửng giữa
trời, đầu dốc ngược xuống dưới:
49. Hãy đặt ta ngay thẳng tức thì,
Nếu chàng cần có trái tim kia,
Hôm nay ta thuyết cho chàng rõ
Pháp của thiện nhân, hãy lắng nghe.
Punnaka suy nghĩ: "Pháp lành chưa hề được
tuyên thuyết trước chư Thiên và loài người. Vậy ta phải lập tức đặt ngài đứng
xuống và nghe Pháp thiện nhân mới được.” Thế là chàng nhấc bậc Ðại Sĩ lên và đặt
ngài trên đỉnh núi.
Bậc Ðạo Sư miêu tả cảnh ấy như sau:
Punnaka, sau khi vội vàng đặt vị đệ nhất thiện
nhân của xứ Câu-lâu xuống đỉnh núi, liền hỏi bậc Ðạo Sư đại trí, trong khi ngài
ngồi nhìn cây pipul (cây đa):
- Ta đã đưa ngài lên từ vực thẳm, ta cần quả
tim ngài hôm nay, vậy hãy giảng cho ta nghe Pháp lành của thiện nhân.
Bậc Ðại Sĩ đáp lại:
- Ta đã được chàng cứu khỏi vực thẳm, nếu
chàng cần trái tim ta, ta nguyện thuyết Pháp lành của thiện nhân cho chàng nghe
hôm nay.
Rồi bậc Ðại Sĩ bảo:
- Thân thể ta nhơ uế, cho ta tắm rửa ngay.
Thần Dạ-xoa ưng thuận, mang nước đến và khi
ngài đang tắm rửa, chàng liền đem thiên y cùng dầu thơm cho ngài. Sau khi ngài
đã mặc y phục, trang điểm xong, chàng lại đem vật thực trên thiên giới cho
ngài. Sau bữa ăn, bậc Ðại Sĩ trang hoàng đỉnh Hắc Sơn thật tràn trề hoa lá, lại
bài trí một sàng tọa lộng lẫy xong, ngài ngồi xuống ngâm vần kệ, trình bày phận
sự của một thiện nhân với vẻ uy nghi tối thắng của một vị Phật:
50. Chàng hãy theo đường đã vạch ra,
Chùi cho thật sạch bàn tay dơ,
Đừng bao giờ phản bội bằng hữu,
Đừng rớt vào uy lực nữ ma.
Chàng Dạ-xoa không thể nào thấu triệt ý
nghĩa của bốn qui luật được diễn tả quá ngắn gọn như vậy, liền hỏi thêm chi tiết:
- Thế nào đi theo con đường đã vạch sẵn? Thế
nào là đốt đi bàn tay lấm dơ? Những ai là nữ nhân bất tịnh? Những ai phản bội
thân bằng? Xin ngài nói rõ theo yêu cầu của ta.
Bậc Ðại Sĩ đáp lại:
- Kẻ nào mời ta vào nghỉ ngơi khi ta là lữ
khách chưa hề quen biết trước đây, ta hãy làm theo họ. Bậc Trí giả gọi đó là
người đi theo con đường đã vạch sẵn. Ta trú chân trong bất kỳ nhà nào dù chỉ
qua một đêm và được mời ăn uống, thì ta đừng có ý nghĩ xấu trong đầu về người
đó, kẻ nào phản bội bạn hữu là đốt một bàn tay vô tội . Ðừng bẻ cành cây đã cho
ta bóng mát khi nằm ngồi, kẻ phản bội bạn bè thật hèn hạ. Hãy trao tặng mọi thứ
vàng bạc của cải ở đời cho nữ nhân mà ta đã lựa chọn, tuy thế nữ nhân sẽ khinh
bỉ ta khi có dịp; vậy đừng rơi vào uy lực của các nữ nhân bất tịnh. Như thế là
một người biết theo đạo lộ đã vạch sẵn; thế là người ấy đốt cháy bàn tay vấy bẩn;
đây là nữ nhân bất tịnh; đây là kẻ phản bội bằng hữu; còn kia là chính nhân, vậy
hãy từ bỏ mọi bất công sai trái.
Như vậy, bậc Đại Sĩ đã thuyết Pháp cho chàng
Dạ-xoa với uy nghi cao cả của một vị Phật về bốn phận sự của thiện nhân.
Punnaka nghe xong, liền suy nghĩ: "Trong bốn lời khuyên này, bậc hiền trí
chỉ cầu mong sự sống cho ngài, vì ngài thật sự đã tiếp đãi ta nồng hậu, dù ta
còn là kẻ xa lạ trước đây; ta ở lại trong nhà ngài ba hôm, được ngài quý trọng
vô cùng. Thế mà ta đang làm hại ngài chỉ vì một nữ nhân; hơn thế nữa, ta đang
phản bội thân bằng, nếu ta làm hại bậc Trí giả này tức là ta không theo thiện
nhân pháp, vậy ta cần gì Long nữ Nàga đã chứ? Ta phải lập tức đem ngài trở lại
Indapatta làm cho những khuôn mặt u sầu của dân chúng tại đó được tươi vui và
ta sẽ đặt ngài ngồi trên bảo tọa trong thính đường.” Rồi chàng nói to:
- Ta đã ở lại ba ngày trong nhà ngài, ta đã
được ngài cung phụng thức ăn thức uống, ngài là bằng hữu của ta, ta sẽ để ngài
đi, hỡi bậc Trí giả tối thắng, ngài cứ trở về nhà ngài theo ý nguyện. Ngoài ra
những việc liên quan đến dòng giống Long vương đều hủy bỏ, ta không cần gì Long
nữ nữa nhờ những lời lẽ chính đáng của ngài, nên ngài được thoát khỏi tai họa
do ta giáng xuống hôm nay.
Bậc Ðại Sĩ đáp lại:
- Này thiếu sinh, đừng đưa ta trở lại nhà mà
cứ đem ta đến cung Long vương đi.
Rồi ngài ngâm kệ:
51. Chàng hãy đưa ta, hỡi Dạ-xoa,
Ðến thăm nhạc phụ của chàng mà,
Rồi ta sẽ chỉ cho rồng chúa,
Cung điện Long vương thuở đã qua,
Ngài chẳng bao giờ trông thấy được,
Hãy làm việc tốt nhất cho ta.
Punnaka đáp:
52. Bậc Trí không nên để mắt trông,
Những gì không lợi lạc thường nhân,
Tại sao bậc Trí vô song địch,
Ước muốn ra đi giữa địch quân?
Bậc Ðại Sĩ đáp:
53. Quả thật ta đây biết rõ rành,
Trí nhân chỉ để ý điều lành,
Nhưng không phạm tội bao giờ cả,
Sao tử thần ta phải hãi kinh?
- Hơn nữa - ngài tiếp - nhờ bài thuyết Pháp
của ta, một kẻ độc ác như chàng đã được điều phục và hồi tâm, nay chàng lại
nói: "Ta không cần Long nữ nữa, ngài cứ trở về.” Nên phận sự của ta là phải
làm dịu lòng Long vương, cứ đem ta lại đó tức thì.
Nghe vậy, Punnaka ưng thuận đáp:
- Này bậc Trí giả, ngài sẽ cùng ta chiêm ngưỡng
thế giới huy hoàng vô song, nơi Long vương ngự trị giữa tiếng đàn ca múa hát chẳng
khác nào Thiên vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) ở ngự viên Nalinì vậy. Có biết bao
đoàn Long nữ xinh tươi với bao trò giải trí suốt sáng thâu đêm, cùng với trăm
hoa đua sắc, khiến cung điện sáng rực như ánh chớp giữa không gian. Ðầy đủ sơn
hào hải vị, mỹ tửu, ca múa, đàn sáo, các Long nữ với trang phục diễm kiều, cung
điện sáng ngời với xiêm y và trân bảo.
VII. VIDHURA VÀO LONG CUNG
Rồi Punnaka đặt vị đệ nhất thiện nhân của xứ
Câu-lâu ngồi đằng sau chàng và mang bậc Hiền trí lỗi lạc ấy đến cung Long
vương. Khi đến cung điện huy hoàng vô song ấy, bậc hiền trí đứng sau Punnaka và
Long vương nhìn thấy sự hòa hợp giữa hai vị, liền nói với phò mã tương lai như
ngài đã nói trước kia:
- Khanh đã lên cõi nhân gian, đi tìm quả tim
của bậc Hiền trí. Nay phải chăng khanh đã chiến thắng trở về, mang theo bậc Ðại
trí vô song kia?
Punnaka đáp:
- Người mà Ðại vương mong cầu đã đến, đó là
bậc bảo hộ tiểu thần trong mọi việc, người mà thần đã chiếm được bằng phương tiện
chính đáng. Ðại vương hãy xem ngài thuyết Pháp trước Ðại vương. Diện kiến với
thiện nhân sẽ đem lại an lạc.
Long vương ngâm kệ khi thấy bậc Ðại Sĩ:
54. Người này đang đứng ngắm nhìn ta,
Rồng chúa, người chưa thấy trước kia,
Nên hoảng hốt vì lòng sợ chết,
Giờ không thể nói được lời ra,
Với ta, trong lúc đầy kinh hãi,
Ðây chẳng phải người Ðại trí mà!
Trong lúc Long vương có ý nghĩ như vậy và mặc
dù vua rồng không nói thẳng ra rằng vua không tôn trọng ngài, ngài vẫn biết, nhờ
thượng trí, cách cư xử cao đẹp nhất đối với mọi chúng sinh, nên ngài nói với
vua rồng:
55. Thần không sợ, tấu Chúa rồng linh,
Bởi cái chết, thần chẳng hãi kinh,
Nhưng tội nhân không quyền được nói,
Với đao phủ nọ sắp hành hình,
Và ngài cũng chẳng nên đòi hỏi,
Kẻ tội phạm kia đối đáp mình.
Long vương liền ngâm kệ tán thán bậc Ðại Sĩ:
56. Ðúng như ngài nói, hỡi Hiền nhân,
Ngài nói chánh chân: Một tội nhân,
Không quyền nói với người hành quyết,
Người ấy cũng không hỏi tội nhân!
Sau đó bậc Ðại Sĩ ân cần nói với Long vương:
- Cảnh vinh quang, huy hoàng, oai lực cùng
dòng dõi Long vương của Đại vương đều phải chịu sinh diệt, chưa phải trường tồn
bất biến, thần xin hỏi Ðại vương: Tâu Ðại vương, làm thế nào ngài hưởng được
cung điện này? Có phải không do duyên cớ gì cả hoặc do một nhân duyên trước kia
phát khởi ra chăng? Có phải do ngài tạo ra hay do chư Thiên ban xuống? Xin hãy
giải thích cho thần rõ, tâu Long vương, làm thế nào Ðại vương hưởng được cung
điện này?
Long vương đáp lời:
- Chẳng phải không có nguyên nhân gì mà ta
hưởng được cảnh này, cũng không phải do một nhân duyên nào trước kia phát khởi
ra, cũng không phải do ta tạo hay chư Thiên ban xuống, mà ta hưởng thụ cảnh này
do công đức của ta đạt được.
Bậc Ðại Sĩ lại nói:
- Ðại vương phát nguyện ra sao? Và thực hành
thánh hạnh như thế nào? Thiện nghiệp nào đã đưa lại phước quả này? Ðó là cảnh
vinh quang, huy hoàng, uy lực và dòng dõi Long vương của ngài cùng cung điện
này, tâu Long vương.
Long vương đáp lại:
- Ở cõi trần thế, trẫm cùng vương hậu đều rất
tín thành và đầy lòng nhân từ: tư thất của trẫm biến thành khách đường. Các
Sa-môn, Bà-la-môn được cung phụng ẩm thực linh đình tại đó. Vòng hoa, hương liệu,
dầu thơm, đèn đuốc, tọa sàng, tư phòng, y phục, lương thực trẫm đều chuyên tâm
cúng dường quảng đại tại đó. Ấy là hạnh nguyện và cách hành trì công đức của trẫm;
còn đây là phước quả của công đức ấy: Cảnh vinh quang, huy hoàng, dòng dõi Long
vương cùng cung điện này, thưa bậc Trí giả.
Bậc Ðại Sĩ lại bảo:
- Nếu Ðại vương hưởng được cung điện này bằng
cách ấy, Ðại vương đã thấu hiểu quả báo của thiện nghiệp và luân hồi sinh tử, vậy
thì xin Ðại vương tinh tấn hành trì công đức để đời sau lại tái sinh vào chốn
cung đình.
Long vương đáp:
- Không có vị Sa-môn, Bà-la-môn nào đến đây
để trẫm cúng dường vật thực, vậy thưa Tôn giả, xin cho trẫm biết điều trẫm đang
mong cầu, đó là làm cách nào để trẫm lại có thể tái sinh vào chốn cung đình?
Bậc Ðại Sĩ bảo:
- Có nhiều rồng rắn tái sinh trong chốn này,
cùng với quyến thuộc, thê nhi, nô tỳ của chúng, vậy xin Ðại vương đừng sát hại
chúng bất kỳ bằng lời nói hay hành động. Xin Ðại vương thực hành thiện pháp
trong lời nói cũng như hành động. Thế là Ðại vương sẽ được sống trọn đời trong
cung điện này và khi từ trần sẽ lên cõi chư Thiên.
Sau khi nghe Pháp thoại của bậc Ðại Sĩ, Long
vương nghĩ thầm: "Bậc Hiền trí này không thể xa nhà quá lâu, vậy ta sẽ đưa
ngài đến yết kiến Vimalà cho nàng nghe chân ngôn của ngài, để xoa dịu nỗi ước vọng
khát khao của nàng bấy lâu, thế là ta sẽ làm đẹp lòng vua Dhanañjaya và đưa bậc
Hiền trí trở về là chuyện rất phải.” Thế rồi ngài nói:
- Vị đệ nhất minh quân quả thật đang ưu sầu
vì vắng ngài, vì ngài là cận thần của Ðại vương ấy; một khi ngài đã trở về đó,
dù nay đang gặp hoạn nạn, khổ đau, thì người như ngài cũng sẽ chóng tìm được an
lạc.
Bậc Ðại Sĩ liền tán thán Long vương:
- Ðại vương thật đã phán lên những lời cao
quý của thiện nhân, đó là Chánh pháp tối thượng, chính trong những cơn nguy biến
của cuộc đời như thế này, mà đặc tính của những kẻ như tiểu thần mới được sáng
tỏ.
Long vương càng thêm hoan hỷ liền ngâm kệ:
57. Chàng chiếm ngài không trả giá sao?
Chàng hơn ngài lúc trổ tài cao?
Chàng tâu thắng cuộc công bình lắm,
Ngài thuộc quyền chàng bởi cách nào?
Bậc Ðại Sĩ đáp:
58. Pun-na-ka thắng cuộc tranh tài,
Với Chúa thượng tôi lúc đánh bài,
Ngài đã tặng tôi vì chiến bại,
Công bằng chàng thắng chẳng gì sai.
Long vương vô cùng hân hoan khi nghe những lời
lẽ cao quý của bậc Hiền nhân, liền nắm tay bậc Ðại trí đệ nhất ấy đưa vào diện
kiến vương hậu:
- Này Vimalà, vì vị này mà ái khanh đã xanh
xao, hao mòn vóc ngọc bấy lâu, cao lương đã mất hương vị dưới mắt khanh, vì
trái tim của vầng nhật này mà khanh đã chuốc lấy phiền não bấy lâu, nay hãy
nghe lời ngài cho kỹ, khanh sẽ không còn dịp gặp lại ngài nữa đâu.
Khi Vimalà trông thấy bậc đệ nhất Hiền trí,
liền chắp tay cung kính và thưa với bậc đệ nhất Hiền trí của xứ Câu-lâu với tất
cả lòng hoan hỷ:
59. Người này đang đứng ngắm nhìn ta,
Rồng chúa, người chưa thấy trước kia,
Nên hoảng hốt vì lòng sợ chết,
Giờ không thể nói được lời ra,
Với ta, trong lúc đầy kinh hãi,
Ðây chẳng phải người đại trí mà.
60. Thần không sợ, tâu chúa rồng linh,
Vì cái chết, thần chẳng hãi kinh,
Nhưng tội nhân không quyền được nói,
Với đao phủ nọ sắp hành hình,
Vị này cũng chẳng nên đòi hỏi,
Kẻ tội phạm kia đối đáp mình!
Rồi Long nữ cũng hỏi bậc Hiền trí như Long
vương đã hỏi trước đây và câu trả lời của ngài đã làm nàng hoan hỷ như Long vương vậy.
Bậc Hiền trí thấy rằng Long vương cùng Long
nữ đều đẹp ý với câu đối đáp của ngài, tâm trí càng kiên cường, chẳng chút sợ
hãi liền nói với Long vương:
- Tâu Ðại vương đừng ngại gì, có tiểu thần
đây, xin Ðại vương tùy ý sử dụng sinh mạng tiểu thần, thịt da, tim óc tiểu thần
ích lợi được việc gì, tiểu thần xin tuân hành, Ðại vương mặc tình định đoạt.
Long vương đáp:
- Trái tim của các bậc Hiền nhân chính là đại
trí, hôm nay vương tộc chúng ta được hoan hỷ chính nhờ đại trí của ngài. Vậy chàng thiếu
niên có uy danh toàn hảo kia (tức Punnaka) hãy rước công chúa vu quy ngay hôm
nay, cùng đưa ngài trở về xứ Câu-lâu.
Nói xong Long vương Varuna trao công chúa
Irandatì cho Punnaka khiến chàng vô cùng hoan hỷ liền dốc hết tâm can với bậc Ðại Sĩ.
Bậc Ðạo Sư tả lại sự việc như sau:
Punnaka vô cùng hoan hỷ vì đã chinh phục được Long nữ Irandali, tâm
hồn chàng đầy hạnh phúc, chàng thưa với bậc đệ nhất thiện nhân xứ Câu-lâu:
61. Ngài đã làm ta được vợ tiên,
Ta mong đền đáp xứng người hiền,
Ta trao ngài ngọc vô song địch,
Và rước ngài về xứ sở liền.
Lúc ấy bậc Ðại Sĩ ngâm kệ khác tán dương
chàng :
62. Mong tình đôi lứa chẳng phai tàn,
Do chính lòng hoan hỷ ngập tràn,
Chàng hãy tặng ta viên ngọc quý,
Rồi mang ta trở lại quê hương.
Sau đó Punnaka đặt vị đệ nhất thiện nhân xứ
Câu-lâu vào chỗ ngồi trước chàng và đưa bậc Ðại trí tối thượng về thành
Indapatta. Chàng phi nhanh còn hơn cả tâm tư con người có thể bay bổng; rồi
Punnaka đem vị đệ nhất thiện nhân của dân tộc Câu-lâu về thành Indapatta.
Sau đó chàng nói với ngài:
63. Hãy ngắm thành đô trước mắt ngài:
Phố phường khả ái, các vườn xoài,
Nay ta được vợ tiên như ý,
Ngài trở về nhà thỏa nguyện thôi!
VIII. VIDHURA TRỞ VỀ NHÀ
Cùng ngày hôm ấy, đang lúc thủy triều dâng
vào sáng sớm, vua nằm mộng thấy ngay tại cung môn có một cây đại thọ, thân cây
là trí tuệ, cành lá là công đức và kết quả là năm sản phẩm cao quý của bò cái
(sữa tươi, sữa đông, bơ tươi, bơ chín, bơ đặc), với đàn voi ngựa được trang
hoàng rực rỡ vây quanh, cùng đám đông dân chúng chắp tay cung kính đảnh lễ cây
đại thọ. Bỗng một hắc nhân mặc hồng bào, hoa tai đỏ, cầm khí giới trong tay đến
chặt cây tận gốc , mặc cho dân chúng phản đối và y kéo cây đi mất dạng ; xong y
lại trở lại trồng cây vào chỗ cũ rồi giã từ. Lúc ấy vua hiểu mộng liền nghĩ thầm:
"Bậc Trí giả Vidhura chứ không ai khác chính là cây đại thọ, chàng thiếu
niên đem bậc Trí giả đi mất chính là người chặt cây dù cho dân chúng phản đối,
vậy chàng sẽ trở lại đặt ngài trước cửa Chánh pháp đường rồi ra đi. Hôm nay ta
sẽ được chiêm ngưỡng bậc Trí giả ấy.”
Thế là ngài hoan hỷ ban lệnh cho cả kinh thành trang hoàng rực
rỡ, chuẩn bị Chánh pháp đường sẵn sàng cùng bảo tọa trong mái đình dát đầy trân
bảo, còn ngài có cả trăm vua vị khác vây quanh cùng đám cận thần, dân chúng từ
thành thị đến thôn quê tụ tập lại đó ngài nói lời an ủi họ:
- Các khanh đừng lo gì, các khanh sẽ lại gặp
bậc Hiền trí hôm nay.
Ngài cũng ngồi trong Chánh pháp đường, mong
đợi bậc Hiền trí trở về. Lát sau Punnaka đem bậc Ðại Sĩ đến đặt giữa đám đông ấy
ngay cửa Chánh pháp đường rồi cùng Irandatì trở về thiên giới của chàng.
Bậc Ðạo Sư tả cảnh ấy như sau:
Chàng Punnaka dòng dõi cao sang, đặt vị đệ
nhất thiện nhân của xứ Câu-lâu giữa đám dân chúng tôn sùng ngài, rồi leo lên thần
mã oai phong của chàng bay vút qua không gian. Vua vừa thấy ngài, lòng đầy hoan
hỷ, vụt đứng dậy ôm lấy ngài trong tay và
không chút ngần ngại đặt ngài lên ngai vàng trước mặt vua ở giữa hội chúng.
Sau khi chào hỏi thân hữu xong, vua đón tiếp
ngài ân cần và ngâm kệ:
64. Khanh dẫn chúng ta tựa cỗ xe,
Dân Câu-lâu hỷ lạc tràn trề,
Khi nhìn khanh, trả lời ta rõ,
Sao chàng niên thiếu để khanh về?
Bậc Ðại Sĩ đáp:
65 - 66. Chàng thiếu niên kia, tấu Ðại
vương,
Chàng không phải một kẻ tầm thường,
Hỡi anh hùng, có từng nghe nói,
Ðại lực Pun-na-ka, đại thần,
Của Ðại vương Ða-văn thượng giới?
Có Long vương nọ đại hùng cường,
Va-ru-na ấy là danh tánh,
Ðầy đủ oai phong với lực thần.
67- 68. Pun-na-ka ái mộ công nương,
Long nữ I-ran-da nõn nường,
Chàng lập mưu cho thần phải chết,
Chỉ vì kiều nữ chàng yêu thương;
Nay chàng được vợ tiên như ý,
Thần được phép về đến cố hương,
Và bảo ngọc kia thần chiếm được,
Là trân châu xứng Chuyển luân vương.
- Long vương hài lòng lối thần giải đáp vấn
đề liên quan đến bốn cứu cánh của con người, nên ban cho thần vinh dự nhận lãnh
một viên bảo ngọc. Khi ngài trở về Long cung, vương hậu Vimalà hỏi ngài viên bảo
ngọc của ngài để đâu rồi, ngài liền kể lại tài thuyết Pháp của tiểu thần, khiến
vương hậu ước ao được nghe Pháp thoại ấy nên giả cách ước muốn trái tim tiểu thần.
Long vương không hiểu rõ ước nguyện thật sự của bà, nên bảo Long nữ Irandatì:
"Mẫu hậu của con đòi trái tim của Vidhura, vậy con hãy tìm cho được một hiệp
sĩ có khả năng đem trái tim ấy về đây.” Trong khi công chúa đi tìm, nàng gặp thần
Dạ-xoa Punnaka là cháu của Ðại vương Vessavana. Biết chàng ấy đang yêu nàng say
đắm, nên đem chàng về trình phụ vương, ngài liền bảo chàng: "Nếu chàng đủ
khả năng đem về cho trẫm trái tim của Vidhura, chàng sẽ chiếm được công chúa.”
Thế rồi chàng Dạ-xoa ấy, sau khi tìm được
trên núi Vepulla viên bảo châu của một vị Chuyển luân vương, liền đi đến đây
chơi bài súc sắc và chiếm được thần nhờ thắng cuộc và chàng ở lại tư thất tiểu
thần ba ngày. Rồi chàng bảo tiểu thần nắm lấy đuôi thần mã của chàng, ném tung
tiểu thần lên không qua bao nhiêu cây cối, núi non ở vùng Tuyết Sơn, nhưng
không giết được tiểu thần. Chàng liền nổi trận cuồng phong trong đệ thất cảnh
giới đầy cuồng phong ấy và tung tiểu thần lên đỉnh Hắc Sơn cao sáu mươi dặm,
nơi đây chàng hiện hình sư tử cùng nhiều hình quái vật khác tấn công tiểu thần,
nhưng cũng không giết được tiểu thần.
Cuối cùng theo lời thỉnh cầu của chàng, tiểu
thần bảo cho chàng biết cách giết được tiểu thần. Kế đó tiểu thần thuyết giáo
chàng về thiện nhân pháp; khi nghe xong, chàng vô cùng hoan hỷ nên muốn đem tiểu thần trở về đây. Tiểu thần
lại cùng chàng đi đến Long cung, thuyết Pháp cho Long vương cùng vương hậu
nghe, cả triều đình Long vương đều thỏa dạ. Sau sáu ngày thần ở lại Long cung,
Long vương liền gả công chúa Irandatì cho Punnaka. Chàng thỏa nguyện khi đã
chinh phục được nàng nên ban tặng thần nhiều châu báu làm quà. Sau đó Long
vương ra lệnh chàng đưa tiểu thần lên thần mã do ý chàng tạo ra, chàng ngồi giữa
công chúa ngồi phía sau, chàng đem tiểu thần về đây đặt giữa sân chầu, rồi cùng
Irandatì bay về kinh thành của chàng.
Tâu Ðại vương, như vậy là vì mỹ nữ chàng
yêu, chàng đã dự định giết tiểu thần để cưới được nàng. Nhưng khi Long vương
nghe tiểu thần thuyết Pháp xong, lại hoan hỷ cho phép thần ra về. Và Punnaka lại trao tặng
tiểu thần viên bảo châu như ý xúng đáng với một vị Chuyển luân vương, vậy xin Ðại
vương nhận lấy bảo châu này.
Nói xong ngài dâng bảo ngọc lên vua. Sáng
hôm sau vua muốn thuật lại cho thần dân nghe về giấc mộng của mình, liền kể câu
chuyện như sau:
Trước hoàng môn có một cây đại thọ, thân nó
là trí tuệ, cành lá là công đức, cây trái phát triển chín muồi theo lẽ tự
nhiên, trái của nó là năm sản phẩm của con bò cái, cây được voi ngựa bao phủ
chung quanh. Nhưng trong lúc mọi người đang đàn ca múa hát, một người lạ mặt đến
chặt cây tận gốc rồi mang đi, sau đó cây lại trở về cung điện này của ta, các
ngươi hãy đến chiêm bái cây ấy.
Các ngươi hãy biểu lộ lòng hân hoan của các
ngươi vì trẫm bằng hành động, vậy hãy đem thật nhiều tặng vật đến chiêm bái cây
này.
Bất cứ tù nhân trong quốc độ của trẫm đều được
thả ra hết, cũng như cây này được giải thoát khỏi cảnh giam cầm, mọi người đều
được trả tự do.
Dân chúng hãy vui chơi hội hè suốt tháng
này, cất hết cày bừa đi, hãy cung phụng các Bà-la-môn đủ thịt và cơm gạo, hãy để
các vị ấy uống rượu ở chỗ riêng cho thỏa thích, dù quí vị nào có kiêng rượu hẳn
đi nữa cũng cứ rót thật tràn trề. Hãy mời luôn đám thảo khấu và canh phòng quốc
độ thật cẩn mật để không ai làm hại láng giềng mình được. Hãy đến chiêm bái cây
này.
Khi vua đã ra lệnh như vậy, các cung phi,
vương tử, vệ xá, Bà-la-môn liền đem cho bậc Hiền trí thật nhiều thức ăn uống.
Các tượng sư, vệ sĩ, kỵ mã, bộ binh liền đem
thức ăn uống cho ngài. Dân chúng khắp thành thị, thôn quê tụ tập lại thành từng
đám đem tặng thật nhiều thức ăn uống. Ðám đông hoan hỷ, chiêm ngưỡng bậc Hiền trí sau khi ngài xuất
hiện. Khi ngài mới đến, họ vẫy khăn tay và reo vang khúc khải hoàn.
Một tháng sau, hội hè kết thúc. Bậc Ðại Sĩ
muốn hoàn thành thiện pháp của một vị Phật, liền thuyết giáo cho dân chúng,
khuyên cáo vua và khi mạng chung, ngài được lên thiên giới. Tuân theo lời dạy của
ngài cùng theo gương vua, dân chúng xứ Câu-lâu đã cúng dường và thực hành thiện
pháp, nên khi mạng chung đều đi lên cộng trú với chư Thiên thật đông đảo.
Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Ðạo Sư nói:
- Không phải chỉ ngày nay mà ngay trước kia,
đức Phật khi đã đạt tối thắng trí, liền chứng tỏ tài năng tùy nghi phương tiện
với cứu cánh.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào thời ấy phụ mẫu của bậc Hiền trí chính
là vương tộc ngày nay, chánh phi là mẹ của Ràhula (La-hầu-la), vị trưởng tử là
La-hầu-la, Long vương Varuna là Sàriputta (Xá-lợi-phất), Kim Sí điểu vương là
Moggallàna (Mục-kiền-liên),Thiên chủ Sakka là Anuruddha (A-na-luật-đà), vua
Dhanañjaya là Ànanda và bậc Trí giả Vidhura chính là Ta.
Xem tiếp Chuyện 546 – Quay về Mục lục Tiểu Bộ Kinh (Tập 10)
0 Comments